HỒ THẾ HÀ
“Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai!”
J.Leiba
Đọc bài thơ Trăng mơ của Thúc Tề, tôi bỗng nhớ hai câu thơ định mệnh trên của thi sĩ J.Leiba trong bài thơ Hoa bạc mệnh. Và một cảm thức bất chợt xuất hiện trong tôi, đó là cảm thức về sự mong manh mà bất tử của những thi tài. Mà thi tài thì vẫn thường giống như người đẹp - chết yểu. Vâng! Thúc Tề là một thi tài như thế, tuy ông làm thơ không nhiều. Và người đời không phải ai cũng biết và nhớ đến thơ ông, như nó vốn phải được như vậy.
Nhưng như một quy luật, thơ hay, nó thường tự tỏa phát, lúc đầu le lói, nhưng càng về sau, nó bùng lên như ngọn lửa - ngọn lửa thi ca. Thơ Thúc Tề là một ánh lửa như thế. Thi hữu thuộc và nhớ thơ ông, phát sáng thơ ông đến mọi người yêu thơ khác. Và cứ thế, thơ Thúc Tề luôn là vầng trăng mơ màng trong ký ức buồn man mác như mơ như thực của miền sông Hương, núi Ngự mù sương.
Trăng mơ của Thúc Tề được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam sau khi đọc “tất cả một vạn bài thơ và trong số ấy có non một vạn bài dở”. Những bài được chọn, Hoài Thanh cẩn trọng đọc, “ngâm đi ngâm lại hoài, cố lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, bởi vì theo ông “đặc sắc mỗi nhà thơ chỉ ở trong những bài hay. Mỗi bài thơ hay là mỗi cánh cửa mở cho tôi đi vào một tâm hồn”. Như thế Trăng mơ trước hết là một thi phẩm hay, đẹp, lãng mạn có khả năng quyến rũ lòng người. Nó là một cánh cửa mở để chúng ta đi vào một tâm hồn đồng điệu. Cái man mác buồn của đất trời mà cũng là của lòng người được Thúc Tề đồng hiện trong trục không gian và thời gian (chronotope) nên thơ, êm đềm nhưng có phần tái tê, hiu hắt.
Một đêm mờ lạnh, ánh gương phai
Suốt dải sông Hương nước thở dài
Dào dạt sóng buồn khua bãi sậy,
Bập bềnh bên mạn chiếc thuyền ai.
Không gian ở đây rất đặc biệt, vừa rộng vừa hẹp; rộng là bầu trời có vầng trăng thu cuối tháng như ánh gương phai trải vàng trên dòng nước Hương Giang đang thở dài, thao thức; còn hẹp hơn là con thuyền neo đậu với con sóng buồn dạt dào khua bãi sậy. Thời gian ở đây là một “đêm mờ lạnh” đã về khuya nên “ánh gương phai”, khiến cho cảnh vật trở nên buồn và sông Hương dùng dằng muốn neo giữ hai bờ xanh mộng mị. Đó phải chăng cũng là nỗi lòng của thi nhân - chủ thể ý thức và cảm xúc đang bập bềnh cùng sóng nước? “Dào dạt” và “bập bềnh” là những từ láy tạo cảm giác buồn tái tê, im ắng rất Huế.
Khổ thơ tiếp theo cũng là không gian và thời gian ấy, nhưng được nhân hóa thành những thực thể có linh hồn, cho nên cảnh vật có động hơn. Mây thì xây thành trên núi Bắc, nhạc thì chới với giữa sương sa, trăng thì ẻo lả, ngủ lim dim trên ngọn trúc. Nhưng tựu trung vẫn là buồn - buồn mà đẹp của bức tranh thiên nhiên. Đó cũng là cảm quan mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn mà chủ thể sáng tạo thức nhận và biến nó thành cảm hứng, thành chủ đề, thành thi liệu và ngôn từ. Nghệ thuật tương hợp (l’ art correspondant) xuất hiện. Âm thanh, màu sắc và thiên nhiên cùng nhau tương ứng trong một thế giới đêm huyền ảo của kinh kỳ Huế. Tôi đồ rằng khi sáng tác bài thơ này, Thúc Tề đã chịu ảnh hưởng và vận dung có ý hướng tính từ Thuyết tương hợp của C. Baudelaire - ông tổ của chủ nghĩa tượng trưng để tái hiện cảnh vật và con người.
Mây xám xây thành trên núi Bắc,
Nhạc mềm chới với giữa sương êm.
Trăng mờ mơ ngủ lim dim gật,
Ẻo lả nằm trên ngọn trúc mềm.
Không gian, thời gian trôi theo từng thời khắc trong đêm, cho đến khi về sáng. Trong sương mờ, trên cầu Bạch Hổ những bóng ma tưởng tượng trong cái nhìn ảo giác của nhà thơ, hình như đã biến mất bởi tiếng gà gáy sáng. Trăng như lười biếng dậy, nhưng thực ra là trăng đã ngả về đông, chờ một bình mình thức tỉnh. Và cũng chính lúc này, trên những hàng liễu rũ, sương cũng bắt đầu nhỏ giọt như những dòng lệ trước khi nắng mai kịp làm tan biến, hư vô. Có thể nói, đến đây, thi nhân như muốn níu giữ từng nhịp đi của cảnh vật và sự lưu luyến, ngậm ngùi của lòng người. Như cách thế để hóa giải về một nỗi buồn đẹp mà mong manh trước sự phai phôi của trăng mơ, mà cũng là của nỗi lòng thi nhân vậy.
Nhịp cầu Bạch Hổ mấy bóng ma,
Biến mất vì nghe giục tiếng gà.
Trăng tỉnh giấc mơ, lười biếng dậy,
Động lòng lệ liễu, giọt sương sa.
Bình về thực tế này, Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã nhận xét rất cô đọng mà lột tả được cái thần của bài thơ: “Tôi yêu bài Trăng mơ của Thúc Tề. Mở bài ra, hồn thi nhân kéo mình lê thê trên trang giấy, chán nản, uể oải. Có lẽ nó đã nhập vào cái trăng kia, “ẻo lả” khi nằm mơ, “lười biếng” khi thức dậy. Nhưng khi đã tỉnh, nó mới linh động làm sao! Nó uyển chuyển như một người đẹp. Cái mệt mỏi của Dương Quý Phi với cái nhẹ nhàng của Phi Yến”. Quả là lời bình tương ứng với bài thơ - ý tại ngôn ngoại.
Khổ cuối của bài thơ đã chuyển sang một trạng thái khác. Cảnh đã chuyển sang tình. Đây là đặc điểm thi pháp của thơ trung đại mà cũng là của chủ nghĩa lãng mạn. Thơ lãng mạn, sau khi phiêu lưu qua bao trạng thái cảm xúc và tâm trạng hiện thực, thường nhà thơ tìm đến thiên nhiên và tôn giáo như một ân huệ cứu rỗi để xoa dịu nỗi niềm thanh xuân buồn bã và tiếp tục mơ mộng vào những gì tốt đẹp sẽ đến. Ở đây, Thúc Tề chọn con đường thứ nhất - tìm đến thiên nhiên để đồng điệu, sẻ chia.
Lai láng niềm trăng tuôn dạ nước,
Ngập tràn sông trắng gợn bâng khuâng.
Hương trăng quấn quýt hơi sương ướt,
Ngân dội lời tình điệu hát xuân.
Chỉ còn “lai láng niềm trăng” nhập vào lòng nước và phản chiếu trong ánh nắng mai, gợn bâng khuâng một dòng sông trắng đẹp. Nó là lưu ảnh và lưu hương của vầng trăng, lưu sắc của thiên nhiên, lưu thanh của những lời tình trong những điệu hát xuân trên dòng sông thơm mỗi tối.
Vần luật bài thơ chặt chẽ - chủ yếu là vần gián cách (khổ 2 và 4) và vần cổ truyền (khổ 1 và 3), nhịp điệu bài thơ khoan thai, đều đặn theo cấu trúc 2 / 2 / 3, tạo cảm giác và nhạc tính êm ái, buồn man mác, dùng dằng, lờ lững như chính dòng nước Hương Giang ngàn đời vẫn vậy. Biện pháp tu từ ưu tiên cho phép ẩn dụ và nhân hóa. Biện pháp láy làm cho bài thơ vang ngân. Nhân vật trữ tình của bài thơ chủ yếu là cảnh vật thiên nhiên. Cái tôi trữ tình tác giả hòa tan vào thiên nhiên để thể hiện tâm trạng và cảm xúc đặc biệt của mình. Đó cũng là nét độc đáo của bài thơ. Vì thường nhà thơ lãng mạn phải là chủ thể trữ tình ngôi thứ nhất (première personne) để giãi bày, tâm sự. Ở đây, Thúc Tề không như các nhà thơ lãng mạn cùng thời khác. Ông muốn đứng bên ngoài với điểm nhìn đặc biệt trong đêm để thể hiện cảnh vật và tâm hồn mình. Vì vậy mà tính khách quan, chân thực của bài thơ đã chuyển sang tức thì cho người đọc, không chỉ là sở hữu của Thúc Tề nữa. Sức năng động của bài thơ Trăng mơ chính là ở nghệ thuật gián cách này, có tác dụng nội cảm hóa trong lòng người đọc một cách nhẹ nhàng, da diết và miên man một nỗi niềm sơn thủy.
*
Thúc Tề làm thơ không nhiều, hình như tác phẩm đã công bố lúc tác giả còn sống và di cảo chỉ còn lại năm bảy bài thơ. Và Trăng mơ là thi bản duy nhất được in trên Hà Nội báo năm 1938, sau được Hoài Thanh tuyển đưa vào Thi nhân Việt Nam, nhưng ông được mọi người tôn danh là nhà thơ thực thụ. Điều ấy có gì như số phận và định phận. Nếu Thúc tề không hy sinh vì giặc Pháp thì tác phẩm của ông không chỉ có vậy. Nhưng mà mỗi nhà thơ có định số riêng mình. Thúc Tề là nhà thơ của hiện tượng hiếm thấy - hiện tượng tác giả một bài, mà là một bài độc đáo. Đó cũng là đóng góp tuy nhỏ nhoi nhưng xứng đáng của ông vào nền thơ hiện đại Việt Nam.
Vỹ Dạ, đêm 30/5/2012
H.T.H
(SH281/7-12)
NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.
NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.
LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)
LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)
NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.
LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.
NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.
HỒNG NHU (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)
NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.
NGUYỄN HỮU QUÝ (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.
LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.
MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.
SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.
CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...
NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.
TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.
ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!