Thúc Tề với "Trăng mơ"

10:22 27/07/2012

HỒ THẾ HÀ

“Người đẹp vẫn thường hay chết yểu
Thi nhân đầu bạc sớm hơn ai!”

                         J.Leiba

Đọc bài thơ Trăng mơ của Thúc Tề, tôi bỗng nhớ hai câu thơ định mệnh trên của thi sĩ J.Leiba trong bài thơ Hoa bạc mệnh. Và một cảm thức bất chợt xuất hiện trong tôi, đó là cảm thức về sự mong manh mà bất tử của những thi tài. Mà thi tài thì vẫn thường giống như người đẹp - chết yểu. Vâng! Thúc Tề là một thi tài như thế, tuy ông làm thơ không nhiều. Và người đời không phải ai cũng biết và nhớ đến thơ ông, như nó vốn phải được như vậy.

Nhưng như một quy luật, thơ hay, nó thường tự tỏa phát, lúc đầu le lói, nhưng càng về sau, nó bùng lên như ngọn lửa - ngọn lửa thi ca. Thơ Thúc Tề là một ánh lửa như thế. Thi hữu thuộc và nhớ thơ ông, phát sáng thơ ông đến mọi người yêu thơ khác. Và cứ thế, thơ Thúc Tề luôn là vầng trăng mơ màng trong ký ức buồn man mác như mơ như thực của miền sông Hương, núi Ngự mù sương.

Trăng mơ của Thúc Tề được Hoài Thanh chọn đưa vào Thi nhân Việt Nam sau khi đọc “tất cả một vạn bài thơ và trong số ấy có non một vạn bài dở”. Những bài được chọn, Hoài Thanh cẩn trọng đọc, “ngâm đi ngâm lại hoài, cố lấy hồn tôi để hiểu hồn người”, bởi vì theo ông “đặc sắc mỗi nhà thơ chỉ ở trong những bài hay. Mỗi bài thơ hay là mỗi cánh cửa mở cho tôi đi vào một tâm hồn”. Như thế Trăng mơ trước hết là một thi phẩm hay, đẹp, lãng mạn có khả năng quyến rũ lòng người. Nó là một cánh cửa mở để chúng ta đi vào một tâm hồn đồng điệu. Cái man mác buồn của đất trời mà cũng là của lòng người được Thúc Tề đồng hiện trong trục không gian và thời gian (chronotope) nên thơ, êm đềm nhưng có phần tái tê, hiu hắt.

Một đêm mờ lạnh, ánh gương phai
Suốt dải sông Hương nước thở dài
Dào dạt sóng buồn khua bãi sậy,
Bập bềnh bên mạn chiếc thuyền ai.


Không gian ở đây rất đặc biệt, vừa rộng vừa hẹp; rộng là bầu trời có vầng trăng thu cuối tháng như ánh gương phai trải vàng trên dòng nước Hương Giang đang thở dài, thao thức; còn hẹp hơn là con thuyền neo đậu với con sóng buồn dạt dào khua bãi sậy. Thời gian ở đây là một “đêm mờ lạnh” đã về khuya nên “ánh gương phai”, khiến cho cảnh vật trở nên buồn và sông Hương dùng dằng muốn neo giữ hai bờ xanh mộng mị. Đó phải chăng cũng là nỗi lòng của thi nhân - chủ thể ý thức và cảm xúc đang bập bềnh cùng sóng nước? “Dào dạt” và “bập bềnh” là những từ láy tạo cảm giác buồn tái tê, im ắng rất Huế.

Khổ thơ tiếp theo cũng là không gian và thời gian ấy, nhưng được nhân hóa thành những thực thể có linh hồn, cho nên cảnh vật có động hơn. Mây thì xây thành trên núi Bắc, nhạc thì chới với giữa sương sa, trăng thì ẻo lả, ngủ lim dim trên ngọn trúc. Nhưng tựu trung vẫn là buồn - buồn mà đẹp của bức tranh thiên nhiên. Đó cũng là cảm quan mỹ học của chủ nghĩa lãng mạn mà chủ thể sáng tạo thức nhận và biến nó thành cảm hứng, thành chủ đề, thành thi liệu và ngôn từ. Nghệ thuật tương hợp (l’ art correspondant) xuất hiện. Âm thanh, màu sắc và thiên nhiên cùng nhau tương ứng trong một thế giới đêm huyền ảo của kinh kỳ Huế. Tôi đồ rằng khi sáng tác bài thơ này, Thúc Tề đã chịu ảnh hưởng và vận dung có ý hướng tính từ Thuyết tương hợp của C. Baudelaire - ông tổ của chủ nghĩa tượng trưng để tái hiện cảnh vật và con người.

Mây xám xây thành trên núi Bắc,
Nhạc mềm chới với giữa sương êm.
Trăng mờ mơ ngủ lim dim gật,
Ẻo lả nằm trên ngọn trúc mềm.


Không gian, thời gian trôi theo từng thời khắc trong đêm, cho đến khi về sáng. Trong sương mờ, trên cầu Bạch Hổ những bóng ma tưởng tượng trong cái nhìn ảo giác của nhà thơ, hình như đã biến mất bởi tiếng gà gáy sáng. Trăng như lười biếng dậy, nhưng thực ra là trăng đã ngả về đông, chờ một bình mình thức tỉnh. Và cũng chính lúc này, trên những hàng liễu rũ, sương cũng bắt đầu nhỏ giọt như những dòng lệ trước khi nắng mai kịp làm tan biến, hư vô. Có thể nói, đến đây, thi nhân như muốn níu giữ từng nhịp đi của cảnh vật và sự lưu luyến, ngậm ngùi của lòng người. Như cách thế để hóa giải về một nỗi buồn đẹp mà mong manh trước sự phai phôi của trăng mơ, mà cũng là của nỗi lòng thi nhân vậy.

Nhịp cầu Bạch Hổ mấy bóng ma,
Biến mất vì nghe giục tiếng gà.
Trăng tỉnh giấc mơ, lười biếng dậy,
Động lòng lệ liễu, giọt sương sa.


Bình về thực tế này, Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam đã nhận xét rất cô đọng mà lột tả được cái thần của bài thơ: “Tôi yêu bài Trăng mơ của Thúc Tề. Mở bài ra, hồn thi nhân kéo mình lê thê trên trang giấy, chán nản, uể oải. Có lẽ nó đã nhập vào cái trăng kia, “ẻo lả” khi nằm mơ, “lười biếng” khi thức dậy. Nhưng khi đã tỉnh, nó mới linh động làm sao! Nó uyển chuyển như một người đẹp. Cái mệt mỏi của Dương Quý Phi với cái nhẹ nhàng của Phi Yến”. Quả là lời bình tương ứng với bài thơ - ý tại ngôn ngoại.

Khổ cuối của bài thơ đã chuyển sang một trạng thái khác. Cảnh đã chuyển sang tình. Đây là đặc điểm thi pháp của thơ trung đại mà cũng là của chủ nghĩa lãng mạn. Thơ lãng mạn, sau khi phiêu lưu qua bao trạng thái cảm xúc và tâm trạng hiện thực, thường nhà thơ tìm đến thiên nhiên và tôn giáo như một ân huệ cứu rỗi để xoa dịu nỗi niềm thanh xuân buồn bã và tiếp tục mơ mộng vào những gì tốt đẹp sẽ đến. Ở đây, Thúc Tề chọn con đường thứ nhất - tìm đến thiên nhiên để đồng điệu, sẻ chia.

Lai láng niềm trăng tuôn dạ nước,
Ngập tràn sông trắng gợn bâng khuâng.
Hương trăng quấn quýt hơi sương ướt,
Ngân dội lời tình điệu hát xuân.


Chỉ còn “lai láng niềm trăng” nhập vào lòng nước và phản chiếu trong ánh nắng mai, gợn bâng khuâng một dòng sông trắng đẹp. Nó là lưu ảnh và lưu hương của vầng trăng, lưu sắc của thiên nhiên, lưu thanh của những lời tình trong những điệu hát xuân trên dòng sông thơm mỗi tối.

Vần luật bài thơ chặt chẽ - chủ yếu là vần gián cách (khổ 2 và 4) và vần cổ truyền (khổ 1 và 3), nhịp điệu bài thơ khoan thai, đều đặn theo cấu trúc 2 / 2 / 3, tạo cảm giác và nhạc tính êm ái, buồn man mác, dùng dằng, lờ lững như chính dòng nước Hương Giang ngàn đời vẫn vậy. Biện pháp tu từ ưu tiên cho phép ẩn dụ và nhân hóa. Biện pháp láy làm cho bài thơ vang ngân. Nhân vật trữ tình của bài thơ chủ yếu là cảnh vật thiên nhiên. Cái tôi trữ tình tác giả hòa tan vào thiên nhiên để thể hiện tâm trạng và cảm xúc đặc biệt của mình. Đó cũng là nét độc đáo của bài thơ. Vì thường nhà thơ lãng mạn phải là chủ thể trữ tình ngôi thứ nhất (première personne) để giãi bày, tâm sự. Ở đây, Thúc Tề không như các nhà thơ lãng mạn cùng thời khác. Ông muốn đứng bên ngoài với điểm nhìn đặc biệt trong đêm để thể hiện cảnh vật và tâm hồn mình. Vì vậy mà tính khách quan, chân thực của bài thơ đã chuyển sang tức thì cho người đọc, không chỉ là sở hữu của Thúc Tề nữa. Sức năng động của bài thơ Trăng mơ chính là ở nghệ thuật gián cách này, có tác dụng nội cảm hóa trong lòng người đọc một cách nhẹ nhàng, da diết và miên man một nỗi niềm sơn thủy.

*

Thúc Tề làm thơ không nhiều, hình như tác phẩm đã công bố lúc tác giả còn sống và di cảo chỉ còn lại năm bảy bài thơ. Và Trăng mơ là thi bản duy nhất được in trên Hà Nội báo năm 1938, sau được Hoài Thanh tuyển đưa vào Thi nhân Việt Nam, nhưng ông được mọi người tôn danh là nhà thơ thực thụ. Điều ấy có gì như số phận và định phận. Nếu Thúc tề không hy sinh vì giặc Pháp thì tác phẩm của ông không chỉ có vậy. Nhưng mà mỗi nhà thơ có định số riêng mình. Thúc Tề là nhà thơ của hiện tượng hiếm thấy - hiện tượng tác giả một bài, mà là một bài độc đáo. Đó cũng là đóng góp tuy nhỏ nhoi nhưng xứng đáng của ông vào nền thơ hiện đại Việt Nam.

Vỹ Dạ, đêm 30/5/2012
H.T.H  
(SH281/7-12)








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.

  • Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.

  • 1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).

  • (Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.

  • Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

  • Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)

  • Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".

  • Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.

  • Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).

  • Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.

  • Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.

  • Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...

  • Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.

  • LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH

  • Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.

  • Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.

  • Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.

  • (Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp:            “Những lo toan năm tháng đời thường            Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”

  • đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...

  • Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.