Thời khắc hy sinh lẫm liệt của hai nhà chí sĩ

19:41 19/06/2009
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

Sách “Chí sĩ Trần Cao Vân (1866 - 1916)” của tác giả Trần Trúc Tâm, gọi Trần Cao Vân là “cụ cố của mình”, do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 1999, ở trang 69, viết:“ Ngày 17.5.1916, đất trời Việt Nam ghi nhớ giờ phút bi thương tiễn đưa hai nhà cách mạng Trần Cao Vân, Thái Phiên và hai phụ tá Nguyễn Quang Siêu, Tôn Thất Đề, những người anh hùng bước vào lịch sử dân tộc Việt Nam”. Bản Tiểu sử THÁI PHIÊN do vị tộc trưởng tộc Thái đọc tại Lễ khánh thành đài tưởng niệm nhà chí sĩ Thái Phiên và nhà yêu nước Thái Thị Bôi được tổ chức vào ngày 21-5-2005 tại làng Nghi An - Đà Nẵng, cũng viết: “Cuộc khởi nghĩa thất bại, Thái Phiên cùng Trần Cao Vân bị bắt và xử tử hình. Ngày 17-5-1916 hai ông bị chém ở An Hoà (gần Huế). Lúc đó Thái Phiên 34 tuổi.”

Gần đây, tác giả bài viết này có điều kiện tìm thấy một số sử liệu được viết ngay trong những ngày diễn ra cuộc khởi nghĩa và thuật rõ lại về vụ xử án đối với các chí sĩ. Có lẽ tờ báo tiếng Việt đưa tin nhanh nhất về sự kiện có cuộc khởi nghĩa và những vấn đề liên quan, là tờ TRUNG BẮC TÂN VĂN. Ngay trong số 133 ra ngày 20 tháng 5, dưới nhan đề Hoàng hiệu mới, báo này đã đăng trên trang nhất ở vị trí đáng chú ý nhất bản lai kiểu của Phủ Toàn quyền như sau: “Quan Khâm sứ Kinh điện trình tôi rằng lễ đăng-quang đã cử hành sáng hôm nay ở tại cung điện Huế, theo như điển - lệ thường, có đủ mặt các quan Tây và các quan văn - võ An - nam. Niên hiệu mới đặt là KHẢI ĐỊNH, nghĩa hai chữ ấy là từ nay bắt đầu thời - đại hoà - bình. Vậy các công văn phải đề niên hiệu từ ngày hôm nay trở đi là mười bảy tháng tư, năm KHẢI ĐỊNH nguyên niên”. Tờ Le Nouvelliste Cochinchinois (Nam kỳ tân báo) của Pháp số 2873 - 562, ra ngày 18-5-1916, đăng bản thông báo của Phủ Toàn quyền nói về chuyến kinh lý của viên Toàn quyền lúc bấy giờ là Roume vừa vào Huế và mấy tỉnh miền Trung có xảy ra “biến loạn” trở về Hà Nội sáng 12.5, thuật lại những nét chính của vụ “biến loạn”, về việc vua Duy Tân đã bị bắt, bị phế truất, Hoàng thân Bửu Đảo, con vua Đồng Khánh đã được đưa lên thay, còn hoàng thân Vĩnh San, tức vua Duy Tân đang bị giữ trong một trại lính của Pháp ở Huế. Báo LỤC TỈNH TÂN VĂN, số 429 ra ngày 23-5-1916, đăng lại bản dịch Thông báo của Phủ Toàn quyền, và có bổ sung thêm chi tiết, vì họ đã kịp lấy thêm thông tin mới hơn tờ Le Nouveliste Cochinchinois. Dưới đầu đề “Vua Duy Tân bị phế, ông Hoàng Bửu Đảo con vua Đồng Khánh kế vị” báo này viết: “Quan Toàn quyền Tổng thống Đông Dương Roume ở Huế do theo đường bộ về đến Hà Nội sớm mai ngày thứ sáu 19 mai (tức 19 tháng 5-TG), đi xe lửa riêng. Ngài lấy làm hữu hạnh mà thấy tận mặt, tại Huế và các tỉnh trong và hướng Bắc, đều là những tỉnh Ngài đã đi qua, rằng sự biến loạn tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi đều đã dứt tuyệt cùng là sự đức vua Duy Tân trốn đó không can dự chi với nhơn dân. Nhơn dân cũng chẳng dự đến những kẻ toan mưu sanh loạn còn ẩn nơi ngoại bang, sự ấy nhà nước chẳng chúc sờn, nếu mà vua không can dự vào việc ấy, thì không chúc gì mà nghi nan ngài được.

Trong miệt Quảng Nam, Quảng Ngãi là nơi muốn khởi loạn, song nhơn dân hãy còn cứ lo ruộng rẫy dân làm sao cũng cứ công việc làm như thường. Còn về lính tráng Annam như lính tập, lính khố xanh, lính và thợ đã mộ, nhứt là tại Huế thì thảy đều an tịnh. Trước khi ở Huế về thì quan toàn quyền ngài có dượt các sắc binh, và lại tỏ lời khen ngợi quan coi quản về sự ăn mặc sạch sẽ và hiệu quan lịnh quân lính hẳn hoi.

Các đẳng nhơn dân đều rõ lòng dạ vua Duy Tân phản đối thì quyết rằng, không lẽ còn để ngài giữ ngôi báu được nữa. Các quan phụ chánh cùng hoàng thân quốc thích và các quan đại thần triều đình đều công nghị mà xin phế vua Duy Tân và tôn vua khác lên lập tức. Lời ấy thì quan Toàn quyền đã ưng thuận, nên ngài đã tư điện báo về chánh quốc, thì hội các bộ đều ưng phế trong kỳ nhóm ngày 13 Mai.

Ông hoàng Bửu Đảo là con lớn của Đức Đồng Khánh kế vị cho vua Duy Tân là một vị vương cả toàn thể người Đại - pháp chọn, và hằng giữ một lòng trung thành cùng nhà nước Đại Pháp.

Ông Hoàng Vĩnh San (vua Duy Tân) chờ ngày đem khỏi xứ Đông Dương nay còn tại trại binh trong đất nhượng cho Pháp tại Huế”.

 
Ngày 27tháng 5 năm 1916, trong số 136, dưới đầu đề VIỆC LOẠN TRUNG KỲ, tờ TRUNG BẮC TÂN VĂN đăng một tin ngắn như sau: “Hồi 4 giờ rưỡi chiều 16 Mai (tức tháng Năm-TG), bốn người mưu việc khởi loạn Trung kỳ, đã phải xử tử tại đường Quảng Trị, cách la - ga An Hoà 100 thước. Một người tên là Trần Cao Vân và một người là Thái Phiên, cùng ở Quảng Nam cả. Còn hai người nữa là thị vệ hầu vua”.

Cũng tin này, mãi đến số 431, ra ngày 8 tháng 6 năm1916, tờ LỤC TỈNH TÂN VĂN đăng ở trang 3, cùng đầu đề “Việc loạn Trung kỳ”, như sau: “Hồi 4 giờ rưỡi chiều bữa 16 tháng Mai, bốn người mưu sự khởi loạn tại Trung kỳ, đã phải xử tử tại đường Quảng Trị, cách ga An Hoà 100 thước. Một người tên là Trần Cao Vân và một người là Thái Phiên, cũng ở Quảng Nam cả. Còn hai người nữa là thị vệ hầu vua”. Ở trang nhất của số báo này, LỤC TỈNH TÂN VĂN mới đăng bài tường thuật về Lễ đăng quang của vua Khải Định.

Khác với cách đưa tin với thái độ tương đối khách quan và có phần tỏ thái độ tôn kính, cảm phục đối với vua Duy Tân và các chí sĩ yêu nước của 2 tờ TRUNG BẮC TÂN VĂN, LỤC TỈNH TÂN VĂN, tờ NÔNG CỔ MÍN ĐÀM mãi đến ngày 8 tháng 6 năm1916 mới đề cập đến sự kiện này với một bài tường thuật dài gồm ba phần. Phần thứ nhất thuật lại sự kiện khởi nghĩa, đến khi thi hành bản án đối với các chí sĩ. Phần hai thuật lại Lễ đăng quang của vua Khải Định. Phần ba đăng nguyên văn Thánh chỉ của vua Khải Định. Bằng một giọng văn xa lạ và nhiều ngôn từ không mấy thiện cảm với các nhà cách mạng, báo này viết:

“Mới có một sự buồn ngoài Trung kỳ, nhứt là tại Huế có xảy ra việc đại sự. Đức vua Duy Tân nghe lời bọn phản thần xúi biểu, nên bỏ ngôi mà trốn, rồi cũng kiếm lại đặng đem về.

Khi Duy Tân ra khỏi đền mà đào tẩu, thì phủ Phụ chánh, các quan Đình - Thần và cả trong Tông-Nhơn ai nấy đều một ý, không muốn cho Duy Tân nhập đền lại nên tính tôn ông Hoàng-Bửu-Đạo lên ngôi kế vị mà thôi. Đã có điển tín qua chánh phủ Pháp quốc mà xin, thì chánh phủ nhậm lời, châu phê y theo, điển tín gởi lại tại Huế ngày 15 mai ban mai. Ai nấy đều trông tin lành, còn ông Hoàng-Bửu-Đạo đã sắp đặt sẵn sàng rồi. Qua 3 giờ chiều có ông Tông-Nhơn lệnh, quan Thượng-Thư-Bộ-Hộ hiệp với quan triều lên tại An-Cựu mà rước ngài về đô. Lúc đi ngang qua dinh quan Khâm-sứ, thì ông Hoàng Bửu-Đạo ghé lại một chúc mà tạ ơn quan Khâm và tỏ lòng yêu dấu cùng nước Đại Pháp đã giùm giúp ngài đặng lên ngôi đế-vị, ngài lại phân rằng trước chẳng có chiếu cố đến việc đó, mà cũng tưởng không có tài đức chi mà được vậy.

Bước qua bốn giờ chiều, ngài vào thành nội thì đã có sắp đặt riêng một chỗ đặng ngài làm lễ, ngài ở đó chờ cho gia đình, đồ đạc của Duy Tân ra khỏi rồi, ngài mới vào đền.

Cũng nội hồi đó, quan Khâm-sứ tâu rằng Duy Tân đã bị phế, nay mọi sự tử tế đều lo cho ngài đó, còn việc công minh đã xem xét rồi cho ông Hoàng-Vĩnh-San (Duy Tân). Bọn làm đầu nguỵ bốn đứa mới làm án trảm huyết tức khắc, đến mai, qua 4 giờ rưỡi chiều sẽ dẫn đến pháp trường lệ, cách 100 thước gần ga xe lửa An - hoà đường ra Quảng Trị mà xử trảm.

Một đứa là Thái Phiên nguyên là kẻ bao tiền, nó làm đô đốc binh nguỵ, lãnh việc Sở Tạo tác, trong sở đó đều tin cậy nó, giỏi dắn trong vịêc trù-nghỉ. Khi còn thơ ấu thì học hành giỏi thông thạo mọi sự, dễ hiểu dễ dạy. Nay bởi kiêu căng, nó lại ghét ta mà đền ơn báo đáp đó. Một đứa khác là thầy pháp, gốc là thầy chùa, biết đoán tiên tri thời sự lành dữ, trước nó đã phạm tội làm loạn mà đặng ân xá, nay nó đồ mưu cho vua nhỏ dại, và thường hay đến bái mạng đặng diều dắc vua nầy phục quốc lại. Đó là hai gã đầu đảng, như phục quốc đặng thì sau nó sẽ làm quan lớn hơn hết”...

Chép đến đây, tác giả bài viết này xin được dừng lại để thưa chuyện cùng quý độc giả. Thật lòng, tôi không muốn chép tiếp ra đây đoạn sau, một đoạn văn phũ phàng, miêu tả một cách ghê rợn về sự hành hình đối với các chí sĩ. Tôi sợ rằng, điều đó sẽ làm đau lòng quý độc giả, nhất là đối với các hậu duệ cháu con các nhà chí sĩ. Nhưng, sử liệu là sử liệu. Vả lại, sử liệu dù phũ phàng đến mấy cũng lại có một mặt khác nữa, đó là nó đem đến cho người sau về khoảnh khắc ra đi dù bi thương, nhưng rất đỗi kiên cường, lẫm liệt của ông cha ta. Với suy nghĩ như vậy, tôi xin được chép ra đây đoạn miêu tả của tờ báo nói trên, với lời trân trọng cầu mong sự thể tất của cháu con, hậu duệ các nhà chí sĩ, nhất là đối với hậu duệ chí sĩ Trần Cao Vân. Bài báo viết tiếp:

“Đây chẳng cần gì kể cho hết về sự dẫn đi xử trảm mà trong khi trảm huyết thì những người Tây và Annam đi coi đều lấy làm sợ. Đến 4 giờ rưỡi chiều, 4 cái đầu đã rớt xuống, song le cái đầu tên thầy pháp phải chém 6 lần; mặt trời rọi xuống ngó ghê gớm, hễ gươm chém xuống rồi lại dội lại làm như vậy ai nấy đều day mặt chỗ khác không dám ngó. Ấy là lời thầy pháp đã tiên tri trước như vậy đó. Mấy đứa xử tử không có phiền trách than van chi hết. Chỉ có thầy pháp khi lâm chung có tụng kinh lớn... Trảm huyết như vậy thật là ghê gớm, ấy là làm gương cho những kẻ tà vạy trở vào đàng Quy-chánh, quân côn đồ hết còn bắt chước nữa...”

Thưa quý độc giả, giờ đây chúng ta như vừa chứng kiến những giây phút hy sinh lẫm liệt của những vị anh hùng đã ra đi hơn 92 năm về trước. Tiếng tụng kinh lớn của “ thầy pháp” Trần Cao Vân, mà bài báo nhắc đến hẳn không chỉ đơn giản là tiếng tụng kinh như người viết nào đó ngỡ là như vậy. Tác giả bài viết này được nghe chính con cháu cụ Trần Cao Vân kể rằng, trước lúc lâm chung, cụ Trần Cao Vân đã ung dung đọc bài thơ tuyệt mệnh, mà ngày nay con cháu đã khắc lên bia kỷ niệm ở làng Tư Phú quê nhà. Bài đó như sau:

Trung lập càn khôn bất ỷ thiên
Việt Nam văn vật cổ lai truyền
Quân dân cộng chủ tinh thần hội
Thần tử tôn chu nhật nguyệt huyền
Bách Việt sơn hà vô Bạch Xỉ
Nhất Xoang trung nghĩa hữu thanh thiên
Anh hùng để cuộc hưu thành bại
Công luận thiên thu phó sử biên


Trung dung đứng giữa đất trời,
Việt Nam văn vật muôn đời sử xanh
Quân dân cộng chủ phân minh
Tôn Châu nghĩa cả đấu tranh không ngừng
Non sông quyết rửa bụi trần
Một bầu trung nghĩa ngút tầng mây xanh
Anh hùng chi sá bại thành
Nghìn năm công luận phẩm bình về sau

Còn tác giả Trần Trúc Tâm khi viết về giây phút cuối cùng của cụ cố của mình đã cho biết, đó chính là lúc cụ dõng dạc đọc bài thơ tuyệt mệnh ngay khi những nhát gươm chém xuống:

Trời chung không đội với thù Tây
Quyết trả ơn vua, nợ nước nầy.
Một mối ba giềng xin giữ chặt
Thân dù thác xuống rạng đài mây”.

N.T.Đ
(243/05-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.