Thời khắc hy sinh lẫm liệt của hai nhà chí sĩ

19:41 19/06/2009
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

Sách “Chí sĩ Trần Cao Vân (1866 - 1916)” của tác giả Trần Trúc Tâm, gọi Trần Cao Vân là “cụ cố của mình”, do Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất bản năm 1999, ở trang 69, viết:“ Ngày 17.5.1916, đất trời Việt Nam ghi nhớ giờ phút bi thương tiễn đưa hai nhà cách mạng Trần Cao Vân, Thái Phiên và hai phụ tá Nguyễn Quang Siêu, Tôn Thất Đề, những người anh hùng bước vào lịch sử dân tộc Việt Nam”. Bản Tiểu sử THÁI PHIÊN do vị tộc trưởng tộc Thái đọc tại Lễ khánh thành đài tưởng niệm nhà chí sĩ Thái Phiên và nhà yêu nước Thái Thị Bôi được tổ chức vào ngày 21-5-2005 tại làng Nghi An - Đà Nẵng, cũng viết: “Cuộc khởi nghĩa thất bại, Thái Phiên cùng Trần Cao Vân bị bắt và xử tử hình. Ngày 17-5-1916 hai ông bị chém ở An Hoà (gần Huế). Lúc đó Thái Phiên 34 tuổi.”

Gần đây, tác giả bài viết này có điều kiện tìm thấy một số sử liệu được viết ngay trong những ngày diễn ra cuộc khởi nghĩa và thuật rõ lại về vụ xử án đối với các chí sĩ. Có lẽ tờ báo tiếng Việt đưa tin nhanh nhất về sự kiện có cuộc khởi nghĩa và những vấn đề liên quan, là tờ TRUNG BẮC TÂN VĂN. Ngay trong số 133 ra ngày 20 tháng 5, dưới nhan đề Hoàng hiệu mới, báo này đã đăng trên trang nhất ở vị trí đáng chú ý nhất bản lai kiểu của Phủ Toàn quyền như sau: “Quan Khâm sứ Kinh điện trình tôi rằng lễ đăng-quang đã cử hành sáng hôm nay ở tại cung điện Huế, theo như điển - lệ thường, có đủ mặt các quan Tây và các quan văn - võ An - nam. Niên hiệu mới đặt là KHẢI ĐỊNH, nghĩa hai chữ ấy là từ nay bắt đầu thời - đại hoà - bình. Vậy các công văn phải đề niên hiệu từ ngày hôm nay trở đi là mười bảy tháng tư, năm KHẢI ĐỊNH nguyên niên”. Tờ Le Nouvelliste Cochinchinois (Nam kỳ tân báo) của Pháp số 2873 - 562, ra ngày 18-5-1916, đăng bản thông báo của Phủ Toàn quyền nói về chuyến kinh lý của viên Toàn quyền lúc bấy giờ là Roume vừa vào Huế và mấy tỉnh miền Trung có xảy ra “biến loạn” trở về Hà Nội sáng 12.5, thuật lại những nét chính của vụ “biến loạn”, về việc vua Duy Tân đã bị bắt, bị phế truất, Hoàng thân Bửu Đảo, con vua Đồng Khánh đã được đưa lên thay, còn hoàng thân Vĩnh San, tức vua Duy Tân đang bị giữ trong một trại lính của Pháp ở Huế. Báo LỤC TỈNH TÂN VĂN, số 429 ra ngày 23-5-1916, đăng lại bản dịch Thông báo của Phủ Toàn quyền, và có bổ sung thêm chi tiết, vì họ đã kịp lấy thêm thông tin mới hơn tờ Le Nouveliste Cochinchinois. Dưới đầu đề “Vua Duy Tân bị phế, ông Hoàng Bửu Đảo con vua Đồng Khánh kế vị” báo này viết: “Quan Toàn quyền Tổng thống Đông Dương Roume ở Huế do theo đường bộ về đến Hà Nội sớm mai ngày thứ sáu 19 mai (tức 19 tháng 5-TG), đi xe lửa riêng. Ngài lấy làm hữu hạnh mà thấy tận mặt, tại Huế và các tỉnh trong và hướng Bắc, đều là những tỉnh Ngài đã đi qua, rằng sự biến loạn tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi đều đã dứt tuyệt cùng là sự đức vua Duy Tân trốn đó không can dự chi với nhơn dân. Nhơn dân cũng chẳng dự đến những kẻ toan mưu sanh loạn còn ẩn nơi ngoại bang, sự ấy nhà nước chẳng chúc sờn, nếu mà vua không can dự vào việc ấy, thì không chúc gì mà nghi nan ngài được.

Trong miệt Quảng Nam, Quảng Ngãi là nơi muốn khởi loạn, song nhơn dân hãy còn cứ lo ruộng rẫy dân làm sao cũng cứ công việc làm như thường. Còn về lính tráng Annam như lính tập, lính khố xanh, lính và thợ đã mộ, nhứt là tại Huế thì thảy đều an tịnh. Trước khi ở Huế về thì quan toàn quyền ngài có dượt các sắc binh, và lại tỏ lời khen ngợi quan coi quản về sự ăn mặc sạch sẽ và hiệu quan lịnh quân lính hẳn hoi.

Các đẳng nhơn dân đều rõ lòng dạ vua Duy Tân phản đối thì quyết rằng, không lẽ còn để ngài giữ ngôi báu được nữa. Các quan phụ chánh cùng hoàng thân quốc thích và các quan đại thần triều đình đều công nghị mà xin phế vua Duy Tân và tôn vua khác lên lập tức. Lời ấy thì quan Toàn quyền đã ưng thuận, nên ngài đã tư điện báo về chánh quốc, thì hội các bộ đều ưng phế trong kỳ nhóm ngày 13 Mai.

Ông hoàng Bửu Đảo là con lớn của Đức Đồng Khánh kế vị cho vua Duy Tân là một vị vương cả toàn thể người Đại - pháp chọn, và hằng giữ một lòng trung thành cùng nhà nước Đại Pháp.

Ông Hoàng Vĩnh San (vua Duy Tân) chờ ngày đem khỏi xứ Đông Dương nay còn tại trại binh trong đất nhượng cho Pháp tại Huế”.

 
Ngày 27tháng 5 năm 1916, trong số 136, dưới đầu đề VIỆC LOẠN TRUNG KỲ, tờ TRUNG BẮC TÂN VĂN đăng một tin ngắn như sau: “Hồi 4 giờ rưỡi chiều 16 Mai (tức tháng Năm-TG), bốn người mưu việc khởi loạn Trung kỳ, đã phải xử tử tại đường Quảng Trị, cách la - ga An Hoà 100 thước. Một người tên là Trần Cao Vân và một người là Thái Phiên, cùng ở Quảng Nam cả. Còn hai người nữa là thị vệ hầu vua”.

Cũng tin này, mãi đến số 431, ra ngày 8 tháng 6 năm1916, tờ LỤC TỈNH TÂN VĂN đăng ở trang 3, cùng đầu đề “Việc loạn Trung kỳ”, như sau: “Hồi 4 giờ rưỡi chiều bữa 16 tháng Mai, bốn người mưu sự khởi loạn tại Trung kỳ, đã phải xử tử tại đường Quảng Trị, cách ga An Hoà 100 thước. Một người tên là Trần Cao Vân và một người là Thái Phiên, cũng ở Quảng Nam cả. Còn hai người nữa là thị vệ hầu vua”. Ở trang nhất của số báo này, LỤC TỈNH TÂN VĂN mới đăng bài tường thuật về Lễ đăng quang của vua Khải Định.

Khác với cách đưa tin với thái độ tương đối khách quan và có phần tỏ thái độ tôn kính, cảm phục đối với vua Duy Tân và các chí sĩ yêu nước của 2 tờ TRUNG BẮC TÂN VĂN, LỤC TỈNH TÂN VĂN, tờ NÔNG CỔ MÍN ĐÀM mãi đến ngày 8 tháng 6 năm1916 mới đề cập đến sự kiện này với một bài tường thuật dài gồm ba phần. Phần thứ nhất thuật lại sự kiện khởi nghĩa, đến khi thi hành bản án đối với các chí sĩ. Phần hai thuật lại Lễ đăng quang của vua Khải Định. Phần ba đăng nguyên văn Thánh chỉ của vua Khải Định. Bằng một giọng văn xa lạ và nhiều ngôn từ không mấy thiện cảm với các nhà cách mạng, báo này viết:

“Mới có một sự buồn ngoài Trung kỳ, nhứt là tại Huế có xảy ra việc đại sự. Đức vua Duy Tân nghe lời bọn phản thần xúi biểu, nên bỏ ngôi mà trốn, rồi cũng kiếm lại đặng đem về.

Khi Duy Tân ra khỏi đền mà đào tẩu, thì phủ Phụ chánh, các quan Đình - Thần và cả trong Tông-Nhơn ai nấy đều một ý, không muốn cho Duy Tân nhập đền lại nên tính tôn ông Hoàng-Bửu-Đạo lên ngôi kế vị mà thôi. Đã có điển tín qua chánh phủ Pháp quốc mà xin, thì chánh phủ nhậm lời, châu phê y theo, điển tín gởi lại tại Huế ngày 15 mai ban mai. Ai nấy đều trông tin lành, còn ông Hoàng-Bửu-Đạo đã sắp đặt sẵn sàng rồi. Qua 3 giờ chiều có ông Tông-Nhơn lệnh, quan Thượng-Thư-Bộ-Hộ hiệp với quan triều lên tại An-Cựu mà rước ngài về đô. Lúc đi ngang qua dinh quan Khâm-sứ, thì ông Hoàng Bửu-Đạo ghé lại một chúc mà tạ ơn quan Khâm và tỏ lòng yêu dấu cùng nước Đại Pháp đã giùm giúp ngài đặng lên ngôi đế-vị, ngài lại phân rằng trước chẳng có chiếu cố đến việc đó, mà cũng tưởng không có tài đức chi mà được vậy.

Bước qua bốn giờ chiều, ngài vào thành nội thì đã có sắp đặt riêng một chỗ đặng ngài làm lễ, ngài ở đó chờ cho gia đình, đồ đạc của Duy Tân ra khỏi rồi, ngài mới vào đền.

Cũng nội hồi đó, quan Khâm-sứ tâu rằng Duy Tân đã bị phế, nay mọi sự tử tế đều lo cho ngài đó, còn việc công minh đã xem xét rồi cho ông Hoàng-Vĩnh-San (Duy Tân). Bọn làm đầu nguỵ bốn đứa mới làm án trảm huyết tức khắc, đến mai, qua 4 giờ rưỡi chiều sẽ dẫn đến pháp trường lệ, cách 100 thước gần ga xe lửa An - hoà đường ra Quảng Trị mà xử trảm.

Một đứa là Thái Phiên nguyên là kẻ bao tiền, nó làm đô đốc binh nguỵ, lãnh việc Sở Tạo tác, trong sở đó đều tin cậy nó, giỏi dắn trong vịêc trù-nghỉ. Khi còn thơ ấu thì học hành giỏi thông thạo mọi sự, dễ hiểu dễ dạy. Nay bởi kiêu căng, nó lại ghét ta mà đền ơn báo đáp đó. Một đứa khác là thầy pháp, gốc là thầy chùa, biết đoán tiên tri thời sự lành dữ, trước nó đã phạm tội làm loạn mà đặng ân xá, nay nó đồ mưu cho vua nhỏ dại, và thường hay đến bái mạng đặng diều dắc vua nầy phục quốc lại. Đó là hai gã đầu đảng, như phục quốc đặng thì sau nó sẽ làm quan lớn hơn hết”...

Chép đến đây, tác giả bài viết này xin được dừng lại để thưa chuyện cùng quý độc giả. Thật lòng, tôi không muốn chép tiếp ra đây đoạn sau, một đoạn văn phũ phàng, miêu tả một cách ghê rợn về sự hành hình đối với các chí sĩ. Tôi sợ rằng, điều đó sẽ làm đau lòng quý độc giả, nhất là đối với các hậu duệ cháu con các nhà chí sĩ. Nhưng, sử liệu là sử liệu. Vả lại, sử liệu dù phũ phàng đến mấy cũng lại có một mặt khác nữa, đó là nó đem đến cho người sau về khoảnh khắc ra đi dù bi thương, nhưng rất đỗi kiên cường, lẫm liệt của ông cha ta. Với suy nghĩ như vậy, tôi xin được chép ra đây đoạn miêu tả của tờ báo nói trên, với lời trân trọng cầu mong sự thể tất của cháu con, hậu duệ các nhà chí sĩ, nhất là đối với hậu duệ chí sĩ Trần Cao Vân. Bài báo viết tiếp:

“Đây chẳng cần gì kể cho hết về sự dẫn đi xử trảm mà trong khi trảm huyết thì những người Tây và Annam đi coi đều lấy làm sợ. Đến 4 giờ rưỡi chiều, 4 cái đầu đã rớt xuống, song le cái đầu tên thầy pháp phải chém 6 lần; mặt trời rọi xuống ngó ghê gớm, hễ gươm chém xuống rồi lại dội lại làm như vậy ai nấy đều day mặt chỗ khác không dám ngó. Ấy là lời thầy pháp đã tiên tri trước như vậy đó. Mấy đứa xử tử không có phiền trách than van chi hết. Chỉ có thầy pháp khi lâm chung có tụng kinh lớn... Trảm huyết như vậy thật là ghê gớm, ấy là làm gương cho những kẻ tà vạy trở vào đàng Quy-chánh, quân côn đồ hết còn bắt chước nữa...”

Thưa quý độc giả, giờ đây chúng ta như vừa chứng kiến những giây phút hy sinh lẫm liệt của những vị anh hùng đã ra đi hơn 92 năm về trước. Tiếng tụng kinh lớn của “ thầy pháp” Trần Cao Vân, mà bài báo nhắc đến hẳn không chỉ đơn giản là tiếng tụng kinh như người viết nào đó ngỡ là như vậy. Tác giả bài viết này được nghe chính con cháu cụ Trần Cao Vân kể rằng, trước lúc lâm chung, cụ Trần Cao Vân đã ung dung đọc bài thơ tuyệt mệnh, mà ngày nay con cháu đã khắc lên bia kỷ niệm ở làng Tư Phú quê nhà. Bài đó như sau:

Trung lập càn khôn bất ỷ thiên
Việt Nam văn vật cổ lai truyền
Quân dân cộng chủ tinh thần hội
Thần tử tôn chu nhật nguyệt huyền
Bách Việt sơn hà vô Bạch Xỉ
Nhất Xoang trung nghĩa hữu thanh thiên
Anh hùng để cuộc hưu thành bại
Công luận thiên thu phó sử biên


Trung dung đứng giữa đất trời,
Việt Nam văn vật muôn đời sử xanh
Quân dân cộng chủ phân minh
Tôn Châu nghĩa cả đấu tranh không ngừng
Non sông quyết rửa bụi trần
Một bầu trung nghĩa ngút tầng mây xanh
Anh hùng chi sá bại thành
Nghìn năm công luận phẩm bình về sau

Còn tác giả Trần Trúc Tâm khi viết về giây phút cuối cùng của cụ cố của mình đã cho biết, đó chính là lúc cụ dõng dạc đọc bài thơ tuyệt mệnh ngay khi những nhát gươm chém xuống:

Trời chung không đội với thù Tây
Quyết trả ơn vua, nợ nước nầy.
Một mối ba giềng xin giữ chặt
Thân dù thác xuống rạng đài mây”.

N.T.Đ
(243/05-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐĂNG MẠNH(Kỷ niệm 70 năm ngày mất nhà văn Vũ Trọng Phụng 1939 - 2009)Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.

  • ĐỖ LAI THÚYHòn đất cũng biết nói năng(Nhại ca dao)

  • HOÀNG CẦMĐang những ngày hè oi ả, mệt lử người thì anh ấy mời tôi viết Bạt cho tập thơ sắp muốn in ra. Ai đời viết bạt cho tác phẩm người khác lại phải dành trang giấy đầu tiên để viết về mình? Người ta sẽ bảo ông này kiêu kỳ hay hợm hĩnh chăng? Nhưng cái anh thi sỹ tác giả tập thơ thì lại bảo: Xin ông cứ viết cho, dẫu là bạt tử, bạt mạng, thậm chí có làm bạt vía ai cũng được - Chết, chết! Tôi có thể viết bạt mạng chứ sức mấy mà làm bạt vía ai được.

  • ĐẶNG ANH ĐÀOTrong tác phẩm nghệ thuật, phân biệt thật rạch ròi cái gì là ý thức, sáng suốt, tự giác với cái gì vô ý thức, tự phát, cảm tính không phải là điều đơn giản. Ngay cả những nhà văn lãng mạn như Huygô, nhiều lúc sử dụng nhân vật chính diện như những cái loa phát biểu lý tưởng của mình, thế mà đã có lúc Kessler bịt miệng lại không cho tán tụng nhân vật Côdet và mắng rằng: Huygô anh chả hiểu gì về tác phẩm ấy hết", đồng thời tuyên bố rằng ông còn thích Epônin gấp bội lần "Côdet, cô nàng điệu đàng đã tư sản hóa ấy".

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…

  • HỮU ĐẠTKhông phải ngẫu nhiên, Trần Đăng Khoa lại kết thúc bài viết về Phù Thăng một câu văn rất là trăn trở: "Bất giác... Tôi nắm chặt bàn tay gầy guộc của Phù Thăng, lòng mơ hồ rờn rợn. Chỉ sợ ở một xó xỉnh nào đó, sau lùm cây tối sầm kia, lại bất ngờ cất lên một tiếng gà gáy..." Ta thấy, sau cái vẻ tếu táo bên ngoài kia lắng xuống một cái gì. Đó là điểm gợi lên ở suy nghĩ người đọc.

  • HÀ QUANG MINHTôi không muốn chỉ bàn tới cuốn sách của ông Khoa mà thôi. Tôi chỉ coi đó là một cái cớ để bàn luận về nền văn học nước nhà hiện nay. Là một người yêu văn học, nhiều khi tôi muốn quên đi nhưng vô tình vấn đề nẩy sinh TỪ "CHÂN DUNG VÀ ĐỐI THOẠI" đã trở thành giọt nước cuối cùng làm tràn ly và lôi tuột cái nỗi đau mà tôi muốn phớt lờ ấy. Phải, tôi thấy đau lắm chứ. Bởi lẽ ai có ngờ mảnh đất trong sáng mang tên văn học sao giờ đây lại ô nhiễm đến thế.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết)         (tiếp Sông Hương số 248)

  • Việc giải quyết thành công mối quan hệ giữa tính dân tộc và tính hiện đại đã hình thành ra các trường phái âm nhạc như: âm nhạc Nga, Pháp, Mỹ, Trung Hoa . . .

  • Phê bình thi pháp học đã mang đến sức sống mới cho phê bình văn học Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng thi pháp học là phương pháp minh chứng cho thành quả thay đổi hệ hình nghiên cứu trong phê bình văn học.

  • Hiện nay trên thế giới, quan niệm về Nghệ thuật tạo hình, Nghệ thuật thị giác và Mỹ thuật mang ý nghĩa gần giống nhau. Nó bao gồm: hội họa, đồ họa, kiến trúc, điêu khắc, trang trí ứng dụng, video clip, sắp đặt v.v..Loại hình nghệ thuật này luôn xuất hiện bằng những hình ảnh (image) thu hút mắt nhìn và ngày càng mở rộng quan niệm, phương thức biểu hiện cũng như khai thác chất liệu. Tuy nhiên, để hiểu thế nào là nghệ thuật trong tranh, hoặc vẻ đẹp của một công trình nghệ thuật còn là câu hỏi đặt ra với nhiều người.

  • HÀ VĂN LƯỠNGPuskin không chỉ là nhà thơ Nga vĩ đại, nhà viết kịch có tiếng mà còn là nhà cải cách văn học lớn. Là người “khởi đầu của mọi khởi đầu” (M. Gorki) Puskin bước vào lĩnh vực văn xuôi với tư cách là một người cách tân trong văn học Nga những năm đầu thế kỷ. Những tác phẩm văn xuôi của ông đã đặt cơ sở vững chắc cho văn xuôi hiện thực và sự ra đời của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga, góp phần khẳng định những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHGần đây trên tuần báo Văn Nghệ đã có bài viết bàn về vấn đề đào tạo "Văn hóa học", nhân dịp Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra nghị quyết V về xây dựng một nền văn hóa, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

  • PHAN TUẤN ANH “Cuộc nói chuyện của chúng ta đã cho tôi thấy rằng hết thảy những gì liên quan đến bản chất của ngôn ngữ mới ít được nghĩ đến làm sao”                                       (Martin Heidegger)

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học sáng tác là nhằm để cho người đọc tiếp nhận. Nhưng thực tế là người đọc tiếp nhận rất khác nhau. Lý luận tiếp nhận truyền thống giải thích là do người đọc không sành.

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.