Thời khắc đồng vọng

08:04 26/04/2013

THỤY KHỞI

Lần hồi qua những trang thơ Lê Vĩnh Thái mới thấy chất liệu thơ từ Ký ức xanh (2004), Ngày không nhớ (2010) cho đến nay Trôi cùng đám cỏ rẽ(*) (2012) hẳn là sự hối hả của dòng chảy ký ức miệt mài băng qua những ghềnh thác thời gian, mà ở độ tuổi của anh có thể bị ăn mòn.

Nỗi thống thiết đầy bất lực trước thời gian vô tình đẩy anh vào khoảng trống - trắng của cuộc đời, và... thơ đã lấp đầy như một thứ dưỡng chất đầy hoạt tính cho những trang hoài niệm.

Ví như người thơ đã thảng thốt trước âm vọng xa xăm của tuổi thơ, bên những cánh chim mà nhớ rằng: “bầy chim bồ chao cuối biền nhao nhác nhặt tuổi thơ qua”. Tuổi thơ của bồ chao hồn nhiên “nhao nhác”, lại gắn với hình ảnh của một chòi xóm bên sông “cuối biền” rất đặc trưng tên gọi của Huế. Một tuổi thơ được “nhặt”, có lẽ tuổi thơ ấy vô tình bị bỏ quên trong ký ức đến nỗi tác giả phải “nhao nhác” tranh cái phần thời gian mỏng mảnh, rất đỗi trong veo ấy của đời người.

Và chính tác giả cũng nói lên cái sự lâm li ấy của tuổi thơ: “ngày mười lăm mẹ cầm roi phất vào tuổi nghịch”. Để đến một thời khắc của cuộc đời, người thơ lại thốt lên cái nỗi nhớ bất lực trước thời gian:

nhớ vung từng mảng ngày tôi xa mình
trong cơn xoáy của tuổi ba lăm

                                    (Xuân)

Tưởng như thời gian ở đây được phân tách thành “từng mảnh ngày”, mỗi mảng là một cái tôi (ở từng thời khắc tuổi) bởi nhà thơ đã thấy cái sự hữu lí của tuổi hiện hữu như Heraclis nói: “Không ai tắm hai lần trên một dòng sông”. Người thơ lúc trước chẳng phải là lúc này, đặc biệt là khi đứng trước “cơn xoáy của tuổi ba lăm” đầy ám ảnh.

Nối tiếp ý thơ trên, nếu không biết tựa đề bài này là Xuân, hẳn chúng ta đã quên đi cái thi vị mà thi sĩ đã phát lộ bằng cảm giác:

từ hôm đó tuổi mèo chậm lại
trên cành mai già khụm lộc liêu xiêu


Ở đây, thời gian tâm lí đã thống trị, kìm hãm sự bất kham của con ngựa thời gian “tuổi mèo chậm lại. Chúng ta đồng cảm với nhà thơ ở giây phút hiện tiền của tuổi “sắp chạm giáp 4”, và khắc khoải trước ảnh xuân “trên cành mai già khụm lộc liêu xiêu. Có vẻ như người thơ đang tự dỗi mình, oán mình trước tuổi lấy mai già để ví von, để nhận “khụm lộc xuân liêu xiêu” bên thềm “tam thập nhi lập” hãy còn chưa viên mãn.

Hai năm sau, người thơ lại đi vào hành trình của một con lộ mới. Ở đó, ta thấy bước chân thời gian đồng hành:

trên đường ba bảy tuổi tôi
qua nhiều ngõ phố đường ba bảy chiều

                                    (Qua đường ba bảy)

Trên đường ba bảy, qua nhiều ngõ phố, qua nhiều giai đoạn cuộc đời và dù ở bên này dốc nhưng người thơ đã thấy mình đi trên con đường luống tuổi “đường ba bảy chiều” mang đầy tâm trạng. Đứng trước tuổi, nỗi buồn đeo bám và chính tác giả cũng nhận thức được để lựa chọn một sự thật rất lãng du:

đêm nay
tôi đi qua tuổi mình cùng đám cỏ trôi rẽ nhánh trên sông


Không những bàng hoàng, nuối tiếc trước thời gian chạy đua cùng tuổi mình, người thơ còn bị ám ảnh bởi những biểu tượng đè nén của thời gian. Đó là phút giây thập tử của người cha thân yêu:

con nghe chiếc đồng hồ
trong lồng ngực Ba tích tắc... tích tắc

                                    (Cho con về lại một ngày)

Đồng hồ, vật đo thời gian thông dụng nhất, đo cả sự sống, đo cả những dự cảm nhói lòng:

chiếc đồng hồ rụng kim
vòng quay chưa định
người đi tới
người lùi sau
dấu chấm lửng
trắng...

            (một ngày vừa qua)

Dấu chấm lửng” ngẩn ngơ tiếc nuối, trắng không gian, trắng trí tưởng, trắng cả sự hiện hữu của “vòng quay chưa định”. Một kết thúc - nỗi buồn thương đau đớn vô hạn của người thơ - người con trước cảnh tang:

đoàn người ẩm bế Ba qua đoạn đường dài hơn hơi thở
biền biệt cõi người

                        (Ngơ ngác chiều tháng chín tàn thu)

Câu thơ “đoạn đường dài hơn hơi thở” mang triết lý, rằng sự sống ấy dài lâu qua mỗi hơi thở, hơi thở tiếp theo có thể không đến sau khi hơi thở này kết thúc. Khi ấy con người đã đi vào cõi chết, một sự thật phải thừa nhận. Bởi nhà thơ đã ý thức được cuộc sống thực sự là không chắc chắn trong từng khoảnh khắc.

Không dừng ở đó, trong một bài thơ khác, “hoảng loạn tìm đàn”, tác giả tiếp tục cho chúng ta lời giải tạm về một định nghĩa, lí ra là thê lương đau khổ:

lần bẩn cuối cùng
lần sạch tận giấc ngủ chết
bầy chuột trở về cõi sạch từ kiếp chưa khai
ngày hóa thân làm chứng
cho sự tuyệt vọng một lời điên đang bần bật

                                    (Hoảng loạn tìm đàn)

Cái chết được ví như “lần bẩn cuối cùng/ lần sạch tận giấc ngủ chết” để bước ra - tái sinh “cõi sạch từ kiếp chưa khai”. Phải chăng người thơ đã hoảng loạn, hoảng loạn trước thời gian, kẻ thù vô hình, luôn hiện diện mọi lúc mọi nơi, nhắc nhở ta bằng nhịp tích tắc... tích tắc như một thắc thỏm định mệnh. Sự hiện diện của luân hồi mà người thơ xác tín qua những từ cõi - kiếp - hóa thân đã cho thấy người thơ tin tưởng vũ trụ này, sự sống này, nhân thế này, văn minh này… chẳng có gì được sinh ra mà không bị suy vong. Có thịnh tất suy, sinh - tru - dị - diệt là chân lí bất biến. Và tất cả lại được tái sinh theo vòng quay vi diệu của pháp luân thường chuyển.

Thời gian có thể giúp con người hoàn thành được những hoài bão và chôn vùi hoài bão. Vì thế, thời gian là người bạn đồng hành và cũng là kẻ thù của con người. Người ta mong muốn vượt qua nó, cố quên nó trong khi chính nó đang mỗi ngày gặm nhấm sự tươi trẻ, minh mẫn của thân xác và trí tuệ.

Để biểu đạt thời gian, trong một bài thơ khác, ở một biên độ mà Lê Vĩnh Thái đã vượt thoát chính mình, vượt thoát cả tập thơ để nhường chỗ cho một sự định vị mới:

sông đã chảy từ một chiều hun hút
người chờ nhau hun hút chiều sông
trong một ngày đắng cay hun hút
mưa vỡ qua đời thấp thỏm đứng khóc sông

                                    (Về một con sông)

Thời gian được người thơ tri cảm ở một trạng thái sâu, mơ hồ “chiều hun hút”. Và nó đánh đồng cùng trạng thái của sông “hun hút”, của xúc cảm “đắng cay hun hút”. Thủ pháp lặp từ được vận dụng triệt để mà linh hoạt, biến chuyển phù hợp với từng dụng thể. Câu kết đi về trạng huống cuối cùng của thời gian “mưa vỡ qua đời” để rồi “thấp thỏm đứng khóc sông. Một hình ảnh thơ đẹp, ươm mộng ngay trên chính những giọt mưa bong vỡ cuộc người mà than khóc trên dòng sông “không ai tắm hai lần”. Có thể nói, đây là khổ thơ hay nhất trong bài thơ (hay cả tập thơ) mà người thơ hoài thai dựng nên trong dung môi vô tận của thời gian.

Sông trở thành người bạn, thành đối tượng ví von để khỏa lấp đi nỗi khắc khoải trước những thời khắc xoay vòng:

sông trôi phẳng như tờ giấy vụt rơi trên nụ hôn buổi chiều
                                                            (Sầu khúc)

Hình ảnh sông được ví “như tờ giấy vụt rơi trên nụ hôn buổi chiều”, vẫn chiều, vẫn rơi dù là sông nhưng đã được cán phẳng cái ranh giới bộn bề e sợ trước thời gian.

Cũng ở bên sông, thời gian ghé đến như một chu kì thường niên:

con bói cá giấu mùa trong cánh mỏng
bìm bịp ập à
nước dâng

            (Ngôi nhà đầy tiếng còi tàu bên sông)

Ở một thi cảnh khác, thời gian đồng hành cùng nỗi đơn độc được giãi bày và người thơ chìm trong viễn mộng:

đã mấy mùa ta ôm chiều rớt bóng
như thằng điên
ăn vụng thoáng em qua

                        (Chợt nhớ)

Mùa - chiều - thoáng đã làm gầy trí tưởng của kẻ “ôm chiều rớt bóng” mà điên rằng chỉ còn là nỗi ngây ngô chân thật “ăn vụng thoáng em qua”. Đồng cảm với tâm trạng đó của người thơ, hẳn chúng ta trong đời ít nhất một lần điên trong khoảnh khắc phóng tình ấy.

Cuộc chạy đua với thời gian, con người chỉ là vận động viên nghiệp dư, một kẻ tôi đòi không hơn không kém. Thời gian có đủ quyền năng để tạo nên tất cả và làm biến mất tất cả. Hiểu như thế mới biết chúng ta - con người chẳng là gì cả trong dòng chảy vô tận của thời gian. Lê Vĩnh Thái trong những thời khắc của cuộc đời “qua đường ba bảy” đã khóc cười trong sáng:

trên giao cảm những con mắt trong veo thẳm sâu khóc cười thành vết

Dừng lại đây thôi, này hỡi những đoạn đường, “mắt trong veo” đó trên những mối giao cảm với thời gian chỉ để lại những vết sẹo buồn vui lồi lõm “thẳm sâu khóc cười thành vết. Lê Vĩnh Thái đi trên bước chân bị thời gian ăn mòn, qua những tuổi tàn phai ký ức và thơ trồi lên như một lời thị chứng. Đứng trước cuộc đời, dùng thơ đúc ký ức, hoài niệm cũng là một cách, nhưng quan trọng vẫn là đúc như thế nào. Những câu thơ, khổ thơ được chắt lọc ra từ “Trôi cùng đám cỏ rẽ” phần nào cho thấy được những lung linh trong tập thơ thứ ba này của Lê Vĩnh Thái. Người viết chỉ tiếc một điều là giá như những câu thơ ấy nằm trong một thi cảnh khác, hội thêm các yếu tố nội cảm sâu dày, lập ngôn, lập ý và lựa chọn một thi pháp đủ đầy để đẩy thuyền thơ chở đi xa hơn có thể.

Ít nhiều trong các bài thơ của mình, nhà thơ bị mê mị đi bởi những luồng chảy của cảm xúc, bị cảm xúc lấn át và làm mờ trí tưởng, khiến cho sự phân chất chưa thật rạch ròi.

Sự khắc khoải triền miên của một con người bên trường thời gian hun hút là nỗi ám ảnh lớn nhất của Lê Vĩnh Thái trong tập thơ này. Đó là những xao động về sự lướt qua vô ý của thời gian kéo theo sự trở về của những mảnh hồi ức nối ghép, đồng vọng cùng thanh âm của những thời khắc hoang hoải kiếp người.

T.K   
(SH290/04-13)

---------------------
(*) Trôi cùng đám cỏ rẽ - tập thơ - Lê Vĩnh Thái, Nxb. Văn học, 2012.
 






 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐÀO DUY HIỆP"Ngữ pháp, ngữ pháp khô khan chính nó, trở thành cái gì đó như một thuật phù thủy, gọi hồn; các từ sống lại, được cấp xương thịt, danh từ trong dáng vẻ tôn nghiêm bản thể của nó, tính từ, trang phục trong suốt khoác lên nó và nhuộm sắc cho nó một lớp tráng, còn động từ, thiên thần của vận động, mang lại cho câu sự động dao" (Baudelaire) (1)

  • MAI VĂN HOANMai Văn Hoan sinh 20-1-1949, quê Thanh Trạch, Bố Trạch, Quảng Bình. Anh tốt nghiệp khoa Văn, Đại học Sư phạm Vinh và từng dạy ở các trường: Cấp 3 Minh Hoá (1971-1973), Sư phạm 10+3 Quảng Bình (1973-1979), Hai Bà Trưng (1979-1985), Quốc Học (1985-2009). Anh từng tham gia bồi dưỡng hàng chục học sinh giỏi văn tỉnh Bình Trị Thiên (1979-1989), tỉnh Thừa Thiên Huế (1989-2009) đoạt giải Quốc gia. Một số học sinh của anh đã trở thành phó giáo sư, tiến sĩ, cán bộ quản lý, nhà văn, nhà báo... nhưng vẫn “mãi mãi không thể nào quên những giờ dạy văn của thầy Mai Văn Hoan” như lời chị Lương Thị Bích Ngọc tâm sự trên VietNamNet.

  • NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

  • VÕ THỊ QUỲNHĐặng Huy Trứ (1825 - 1874) đã để lại khá nhiều thơ văn cho đời. "Từ Thụ Yếu Quy"(*) tập sách bàn về nạn hối lộ và đức thanh liêm của người làm quan, là một trong những áng văn quý giá ấy.

  • Văn Cầm Hải tên thật Nguyễn Thanh Hải, sinh ngày 20 tháng 01 năm 1972, quê ở làng Trần Xá, Hàm Ninh, Quảng Ninh, Quảng Bình.

  • CAO HUY HÙNGBa mươi năm đã trôi qua, kể từ ngày Bác Hồ vĩnh biệt chúng ta! Người đã để lại cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta di sản vô cùng quí báu: Đó là bản di chúc lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử vinh quang hàng ngàn năm của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập dân tộc, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

  • LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

  • ĐẶNG TIẾNPhê bình huyền thoại(1) của Đào Ngọc Chương là một cuốn sách mỏng, in giới hạn, có lẽ chỉ nhắm vào một nhóm sinh viên, nhưng là sách cần yếu, mới mẻ.

  • HỒNG NHUĐó là “Tình bậc thang” (NXB Hội Nhà văn 2006) và “Mặt cắt” (NXB Hội Nhà văn 2007) của một nữ thi sĩ mà cho đến nay không nhiều người biết đến, ít nhất là trong làng thơ. Vì một lẽ rất giản đơn: chị mới xuất hiện trên thi đàn Việt Nam vài ba năm nay thôi.

  • FAN ANHTrong cuộc sống của tất cả chúng ta, đôi khi nụ cười không đồng nghĩa với sự hạnh phúc, cũng như nước mắt không phải bao giờ cũng đồng điệu với nỗi đau. Chính vì thế, mặc dù tiểu thuyết Ba ơi, mình đi đâu? của Jean Louis Fournier là một tác phẩm có thể “gây ra” không ít những tiếng cười, nhưng cảm xúc thanh lọc (Catharsis) mà cuốn sách nhỏ này mang lại cũng lớn lao như bất kì một vở bi kịch nào.

  • Ngày 6 tháng 4 năm 2007 tại Hà Nội, chúng tôi đến thăm nhà thơ Dương Tường tại nhà riêng. Dương Tường ngồi sau một chiếc bàn nhỏ và thấp chất đầy sách vở và ly tách giữa một căn phòng rộng dùng làm phòng triển lãm tranh. Tranh treo kín các tường.

  • ĐOÀN TUẤNTrong tâm tưởng của tôi, thi sĩ Nguyễn Bính là một người có dáng gầy, vóc nhỏ, gương mặt nhẹ nhõm với đôi mắt sáng, tinh anh, mũi dọc dừa và cái miệng cân đối. Tóc Nguyễn Bính không bao giờ để dài. Áo quần Nguyễn Bính thường có màu sáng. Ông đi lại nhanh nhẹn, nhiều khi vội vã. Gương mặt Nguyễn Bính là một gương mặt ưa nhìn bởi trong đó chứa đựng chiều sâu của nhiều ý nghĩ và sắc mặt thay đổi theo tâm trạng thất thường của ông.

  • PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊNâng hợp tuyển “Hải Bằng” (HTHB) sang trọng và trĩu nặng trên tay, thật nhiều cảm xúc tràn đến với tôi. Cuốn sách được gia đình nhà thơ Hải Bằng tặng cho tất cả những người đến dự ngày giỗ lần thứ 11 của nhà thơ được tổ chức tại một ngôi nhà mới xây ở cuối đường Thanh Hải - lại là tên nhà thơ quen thuộc của xứ Huế.

  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.