Thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích

09:07 10/03/2020

LÊ TIẾN DŨNG

Thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích trước hết phải kể đến là thời gian kể, hay là thời gian trần thuật.

Ảnh: internet

Cách kể dân gian khá quen thuộc của truyện cổ tích thường bắt đầu là "ngày xửa, ngày xưa", "ngày xưa" hay có vùng thì bắt đầu là "đời sơ đời sắc"... Chẳng hạn: "Ngày xưa có một anh chàng ngốc nghếch, đần độn..." (Truyện Làm theo lời vợ dặn); "Xưa có một nhà hiếm hoi, sinh được một đứa con thì lại là một con cóc" (Truyện Lấy vợ cóc)... Với cách kể này, truyện cổ tích được quá khứ hóa, câu chuyện được đẩy lùi vào quá khứ xa xưa, tạo ra khoảng cách khá xa giữa thời gian trần thuật và thời gian được trần thuật, góp phần tạo nên tính chất cổ xưa của truyện. Do đó khi đọc truyện cổ tích, nếu thấy bắt đầu bằng "ngày xửa, ngày xưa" hay "xưa", "ngày xưa"... thì không nên xem đó như là một sáo ngữ, mà phải thấy đấy là một nét độc đáo của thi pháp truyện kể dân gian, nhằm tạo dựng, ước định tính chất cổ xưa của truyện, và có thế mới gọi là "truyện cổ". Trong một số sách sưu tầm truyện cổ dân gian gần đây ở nhiều truyện người ta đã bỏ lối kể này, thay vào đó là lối kể hiện đại hơn. Về thực chất với lối kể đó đã đi xa đặc trưng thể loại, làm mất đi tính cổ xưa vốn có của truyện.

Cũng phải thấy thêm là truyện cổ tích do các nhà Nho sưu tầm hay viết lại không hẳn đã kể lại theo lối trên. Các nhà nho thường "lịch sử hóa" truyện cổ tích, vì họ không chấp nhận một cái gì đó không rõ ràng. Bởi thế ở họ có một cách kể khác, tạm gọi là cách kể theo lối "sử hóa". Nghĩa là ở đây các tích truyện đều được gắn với một thời gian lịch sử nhất định. Chẳng hạn trong Lĩnh Nam chích quái, Trần Thế Pháp đã kể truyện Bánh chưng như sau: "Sau khi vua Hùng Vương đã phá được giặc Ân, nhân quốc gia vô sự, muốn truyền ngôi cho con, bèn triệu hai mươi vị quan lang và công tử lại mà phán rằng...". Như vậy ở đây sự tích bánh chưng đã được gắn với một thời gian lịch sử xác định là "Sau khi vua Hùng Vương phá được giặc Ân". Ngay cả những truyện không xác định được thời điểm lịch sử cụ thể thì các nhà Nho vẫn định vị cho nó một thời gian xác định. Cũng trong sách trên, truyện Cây cau được chép: "Thời thượng cổ có một vị quan lang cao lớn, nhà vua ban gọi là Cao, nên lấy Cao làm họ...". Ở đây khái niệm thời gian "thời thượng cổ" tuy không thật cụ thể, nhưng vẫn nằm trong giới hạn thời gian xác định, chứ không mông lung mơ hồ như kiểu "ngày xửa, ngày xưa".

Một nét khác trong thời gian nghệ thuật của truyện cổ tích là thời gian cốt truyện được trình bày theo một mạch thẳng. Các sự kiện, các biến cố được kể tuần tự việc này đến việc khác, kế tiếp nhau trong một thời hiện tại kéo dài. Ở truyện cổ tích chưa biết đến phép đảo ngược, phép đồng hiện, phục hiện hay hồi thuật, hồi tưởng như trong truyện hiện đại. Tất cả các sự kiện ở truyện cổ tích được trình bày theo một đường thẳng. Tấm hết đi xúc tép thì đi chăn trâu, hết đi chăn trâu thì đi hội, hết hội hè thì về giỗ bố... Có người gọi đó là thời gian sự kiện. Và có thể nói thời gian sự kiện chiếm bộ phận chủ yếu trong thời gian nghệ thuật của truyện cổ tích. Ở truyện cổ tích chưa có thời gian tâm lý. Nhân vật không có thời gian suy tư, trăn trở về một điều gì cả. Tính chất "bảo gì nghe nấy", "bảo gì làm vậy" là tính chất phổ biến của nhân vật cổ tích. Tấm được bảo hụp cho sâu kẻo đầu lấm cũng nghe, bảo chăn trâu đồng xa cũng nghe, bảo trèo cau cũng nghe... Đến khôn ngoan như mẹ con mụ dì ghẻ bảo tắm nước sôi đẹp ra mà cũng nghe nữa là. Nhân vật cổ tích do đó chủ yếu tồn tại trên phương diện hành động, chứ không phải trên phương diện tâm lý như nhân vật hiện đại. Thực ra trong cổ tích cũng có nói đến mưu mẹo, mưu mô. Nhưng mưu mẹo ở đây chưa phát triển thành mưu mẹo của tính toán, cân nhắc của tâm lý, mà chủ yếu cũng như một loại hành động. Chẳng hạn như Cám muốn lấy giỏ tép của Tấm thì bảo hụp cho sâu, mẹ con dì ghẻ muốn bắt cá bống thì bảo Tấm chăn trâu đồng xa, lão nhà giàu muốn quịt công anh trai cày thì bảo đi tìm cây tre trăm đốt, người anh muốn giàu thì may túi sáu gang... Nhưng suy cho cùng các mưu mẹo đó đều được miêu tả như những hành động mà thôi chứ không có quá trình phát triển tâm lý. Cũng như trường hợp các nhân vật "khóc", rồi Bụt hiện lên. "Khóc" ở đây như là một loại hành động hơn là một biểu hiện tâm lý.

Thời gian tâm lý không được miêu tả nên trong truyện cổ tích nhân vật cũng không biết ước mơ, không biết hồi ức, không được sống với quá khứ đã đành, mà cũng không mơ tưởng đến tương lai. Thời gian trong truyện cổ tích do vậy chủ yếu là một hiện tại kéo dài. Con người không biết đến ốm đau, tuổi già. Đúng như câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:

Dẫu phải khi cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm cũng về làm hoàng hậu...


Tính chất không thay đổi đó của thời gian cũng thể hiện ở các kết thúc của truyện cổ tích. Các quan niệm như "Sống hạnh phúc đời đời", "lên làm vua trị vì muôn đời", "sung sướng suốt đời"... về thực chất là một thời hiện tại kéo dài đến vĩnh cửu.

Các thước đo thời gian cũng chưa được áp dụng trong truyện cổ tích. Nhân vật truyện cổ tích không có tuổi. Nào ai biết cô Tấm bao nhiêu tuổi, nào ai biết chàng hoàng tử, hay người đẹp ngủ trong lâu đài bao nhiêu tuổi. Nếu ai đó sưu tầm truyện cổ mà kể rằng nàng công chúa hai mươi tuổi rằng mụ phù thủy tuổi trạc bốn mươi... thì sẽ thấy buồn cười. Người ta chỉ có thể đoán biết họ qua tên gọi mà thôi. Đấy là một mụ già, một ông lão, một cô gái, một chàng trai, một đứa bé... Chứ không ai lại đi kể tuổi của nhân vật cổ tích.

Thước đo thời gian cũng không mấy khi áp dụng để diễn tả độ lâu và khoảng cách giữa các sự kiện. Chẳng hạn từ khi Tấm vào cung cho đến ngày về giỗ bố thời gian bao lâu không ai biết. Tấm sống bao lâu với bà lão hàng nước thì gặp vua cũng không ai hay. Cho nên trong cách kể của truyện cổ tích, chúng ta thấy rất nhiều trạng từ thời gian không xác định được sử dụng như: một hôm, hôm ấy, bữa kia, ngày nọ, ít hôm sau, mấy hôm sau, một lần, lần nọ... Chỉ ở những truyện quãng cách thời gian trở thành một yếu tố của cốt truyện không thể thiếu thì mới được xác định. Chẳng hạn như lời phán truyền: công chúa ngủ trong một trăm năm thì có người đến thức dậy, sau nửa đêm nàng lọ lem phải trở về, anh trai cày làm thuê cho lão nhà giàu ba năm, Từ Thức gặp Tiên và sống nơi tiên giới bảy năm... Các truyện vừa kể thời gian có vai trò như là một yếu tố xác định của cốt truyện, thiếu nó cốt truyện không lý giải được. Còn ở các truyện khác nói chung thời gian ít xác định về mặt định lượng cũng như định tính.

Thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích có những nét độc đáo riêng, nó khác với thời gian tuần hoàn trong văn học trung cổ, thời gian tâm lý trong văn học cận hiện đại đã đành mà cũng khác với thời gian không đầu không cuối trong thần thoại... Nét riêng biệt nó đã làm cho truyện cổ tích có những đặc trưng khác so với các loại thể văn học khác. Tìm hiểu thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích sẽ có ý nghĩa trong việc sưu tầm và nghiên cứu nó, tránh được những cách làm hiện đại hóa truyện cổ tích một cách tùy tiện như trong một số sách sưu tầm truyện cổ dân gian vừa qua.

1988-1990
L.T.D.
(TCSH47/01&2-1992)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRỊNH SÂM

    Trải qua biết bao thời đại, mèo đã trở thành con vật quen thuộc trong mỗi gia đình Việt Nam.

  • NGUYỄN ĐỨC DƯƠNG

    Làm thế nào để biết một biểu thức ngôn từ [BTNT] do dân gian sáng tác ra là một đơn vị tục ngữ? Chứ không phải là thành ngữ hay ca dao? Mục đích chính của bài này là đi tìm một câu trả lời thỏa đáng cho mấy câu hỏi vừa nêu.

  • NGUYỄN ĐỨC DÂN Có một giai thoại về Nguyễn Khuyến như sau: Làng Cổ Ngựa có ngôi đền thờ thánh mẫu thu hút khá nhiều người đến lễ bái. Nhằm kiếm chác đám người mê tín, hào lý trong làng xuất quỹ xây lại đền to hơn, đẹp hơn.

  • Mai Văn Tấn tên thật là Mai Văn Kế. Sinh ngày 12-9-1931 tại Lệ Ninh Bình Trị Thiên. Hội viên Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

  • THANH TRẮC NGUYỄN VĂN1. Tiểu Hổ gặp họa

  • TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONGTừ trước đến nay, không có lễ tục nào được nhắc đến nhiều trong truyện cổ của người Pacô bằng tục Pộôc xu (Đi sim), đây là một nét văn hóa truyền thống từ xưa của người Pacô. Mặc dầu đến nay do lối sống hiện đại nên nhiều nét văn hóa truyền thống mất đi, song không vì thế mà chúng ta quên nó. Đâu đó trong cuộc sống cộng đồng của người Pacô ngày nay vẫn còn nhiều câu chuyện kể về tục này. Nhân dịp xuân về xin được nêu ra đây nét đẹp trong lễ tục quan trọng đó.

  • L.T.S: Dân tộc Kơ-tu là một trong bốn dân tộc sống ở tỉnh Bình Trị Thiên, tập trung ở vùng Nam Đông, huyện Phú Lộc. Trước đây dân tộc Kơ-tu đã sát cánh cùng các lực lượng giải phóng tiến hành cuộc đấu tranh anh dũng chống lại bè lũ Mỹ ngụy. Ngày nay, dân tộc Kơ-tu đang vững bước đi lên trong công cuộc lao động sản xuất, xây dựng cuộc sống mới. Cũng như các dân tộc khác, người Kơ-tu không chỉ anh dũng trong chiến đấu, cần cù sáng tạo trong lao động sản xuất mà còn có một nền văn nghệ dân gian rất phong phú và độc đáo. Bài viết sau đây là một nét phác họa trong chương trình giới thiệu nền văn học dân gian các dân tộc ít người ở tỉnh Bình Trị Thiên của chúng tôi.

  • VĨNH QUYỀNTừ lâu điều kiện thiên nhiên cũng như điều kiện xã hội đều thuận lợi cho mối quan hệ giữa hai dòng thơ ca dân gian Bình Trị Thiên và Quảng Nam.

  • NGUYỄN TIẾN VĂNMột trong những câu ca dao rất thông dụng phổ biến nhưng không phải là đơn giản và dễ nắm bắt nội dung: “Không chồng mà chửa mới ngoan/ Có chồng mà chửa thế gian sự thường”. Ở đây mắt của câu này là chữ ngoan. Vậy ngoan là gì?

  • VĨNH QUYỀNMười hai con giáp, chuột đứng hàng đầu. Kể cũng lạ?Hình dạng bé nhỏ xấu xí, phẩm cách hèn hạ đáng khinh, thế mà chuột được người xưa xếp trước cả những con vật uy mãnh như hổ, linh hiển như rồng. Đã thế, năm Tý – với biểu tượng con chuột, còn là năm đầu của một kỷ, chu kỳ 60 năm.

  • LƯƠNG ANCũng như nhiều vùng khác trên đất nước Việt Nam, ở Bình Trị Thiên chúng ta, các danh lam hoặc các ngọn núi cao, các dòng sông lớn thường có một truyền thuyết dân gian dính với nguồn gốc của nó. Sông Thạch Hãn, con sông lớn nhất vùng Quảng Trị cũ, cũng vậy.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Khái quátSở dĩ người nghe (đọc) truyện cười phát ra được tiếng cười, bởi vì lí trí, tình cảm của họ gặp phải điều không bình thường: thay vì họ tưởng cuối cùng nhân vật sẽ nói, sẽ làm điều “A”, thì hoá ra nhân vật đã nói, làm điều “B”, thậm chí “không A”. Tức trí tuệ, cảm xúc đã không lường trước, đã bị đánh lạc hướng trước đối tượng đang quan tâm. Và thông thường, càng lạ lẫm, bất ngờ, tiếng cười càng sảng khoái, thú vị.

  • VĂN NHĨĐường Trường Sơn huyền thoại đã đi vào sử thi như một bản anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh. Nhiều bài thơ, bài hát viết về Trường Sơn đã vượt qua biên độ của thời gian mãi mãi rung động lòng người.

  • LAN PHƯƠNGKho tàng âm nhạc dân gian của dân tộc Thái vùng Tây Bắc rất phong phú và đa dạng. Bất cứ nơi đâu trong bản làng của người Thái đều có thể thấy có các làn điệu dân ca thể hiện rõ phong cách riêng của mỗi vùng mà nguyên nhân do sự truyền lại cho các thế hệ theo cách cảm thụ và rung động riêng của mỗi nghệ nhân. Trong đó không thể thiếu tiếng cây đàn tính tẩu.

  • TRIỀU NGUYÊN1. Một bộ phận truyện cổ tích sinh hoạt có yếu tố tạo ra tiếng cười đã bị nhầm lẫn là truyện cười. Sự nhầm lẫn này đã xảy ra ngay cả với những sách sưu tập được cho là nghiêm túc.

  • TRIỀU NGUYÊN Trong những dịp cúng lễ, lễ lạt, hiếu hỉ, và đặc biệt là vào dịp Tết, rượu thường được nhắc đến, và có khi trở thành quan trọng hàng đầu: "Vô tửu bất thành lễ".

  • TRIỀU NGUYÊNCó một số bài ca dao dùng hình ảnh "đèn hạnh", xin dẫn ra dưới đây ít bài:(1)           Đêm khuya đèn hạnh thắp lên,                Vì chưng thương nhớ cho nên đi tìm.

  • PHAN XUÂN QUANGĐồng Tranh là một làng nổi tiếng trù phú một thời ở Quảng Nam. Làng này hiện còn lưu truyền một câu đối cổ có liên quan đến làng Gia Hội, Huế:Văn Đồng Tranh, võ Đồng Tranh, văn võ Đồng Tranh long hổ bảngQuân Gia Hội, thần Gia Hội, quân thần Gia Hội phụng hoàng trì.Câu đối này còn một số dị Bản, có khác một đôi chữ nhưng câu trên đây theo nhiều người là chính nhất và phổ biến hơn cả.

  • TRIỀU NGUYÊN  Từ ngữ cùng nghĩa là những từ ngữ gần nhau về ý nghĩa, nhưng khác nhau về âm thanh. Có ba kiểu cùng nghĩa trong tiếng Việt, là cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt (TV) với từ ngữ thuần Việt, cùng nghĩa giữa từ ngữ thuần Việt với từ ngữ Hán Việt (HV), và cùng nghĩa giữa từ ngữ Hán Việt với từ ngữ Hán Việt. Câu đối chơi chữ theo cách cùng nghĩa, có hai hình thức: tạo các từ ngữ cùng nghĩa xuất hiện trên cùng một văn bản ngắn; và cách cùng nghĩa có kết hợp với các hình thức chơi chữ khác.