Thơ văn xuôi của Chế Lan Viên

10:29 31/08/2009
LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

Nhà thơ Chế Lan Viên - Ảnh: baoquangtri.vn

Đặc biệt là nghệ thuật thơ của bài “Cành phong lan bể”. Ta ngỡ ngàng khi đọc những câu thơ theo lối tự do này của ông: chúng đẹp cả về ngôn từ và tình ý, chúng khiến ta phải nghĩ khác đi về cái ta quen gọi là “Thơ Văn xuôi” - vốn thường hay bị coi như một thứ thơ “không vần” (và không hiếm khi được thực hiện bởi một bản lĩnh thơ xoàng nhưng lại nhân danh một tư duy nghệ thuật mới).

Thơ, cho dù là dưới bất kỳ hình thức nào - thơ cách luật, thơ tự do, thơ không vần - nó vẫn khác văn xuôi ở chỗ: bao giờ nó cũng phải có “nhạc điệu/nhạc tính” là cái vốn có được trước hết do sự hòa hợp khéo léo về thanh âm, sự lặp lại một cách tuần hoàn các âm thanh mạnh nhẹ hay cao thấp (mà ta quen gọi là “âm điệu”, “nhịp điệu”/ “tiết tấu”), gây khiến được ở nơi người đọc những ấn tượng, những cảm giác cần có.

Thơ không thể hay, nếu nhà thơ không giữ được cho câu thơ, đoạn thơ, bài thơ một nhịp thơ, bước thơ thích hợp.
Hãy thử xem một đoạn thơ sau, trong bài “Cành phong lan bể”, rất nổi tiếng của Chế Lan Viên, thường được trích dẫn như tiêu biểu cho phong cách thơ văn xuôi của ông. Đoạn thơ này nguyên văn trong bản in năm 1960 như sau:
Xanh biếc màu xanh, bể như hàng nghìn mùa thu qua còn để tâm hồn nằm đọng lại
Sóng như nghìn trưa xanh trời đã tan xanh ra thành bể và thôi không trở lại làm trời
Nếu núi là con trai thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương đã biến thành con gái
Mỗi đêm hè da thịt sóng sinh sôi

Thoạt nhìn đoạn thơ trích dẫn trên, với những câu thơ dài suýt soát 20 chữ, rõ ràng không phải là lối thơ cách luật truyền thống. Nó khiến ta tưởng như Chế Lan Viên đang làm một thứ thơ rất tự do, rất mới, rất khác. Có vẻ như đây không phải là thơ đích thực, mà là một cái gì đó từa tựa như cái ông đã đặt tên cho nó: văn xuôi về một vùng thơ!

Cả đoạn thơ, bề ngoài, Chế Lan Viên chỉ xuống dòng và nối dòng thành có 04 câu thơ tự do khá dài: ngoại trừ câu cuối ngắn nhất là 08 chữ, ba câu còn lại có độ dài tăng tiến dần lên - câu thơ thứ nhất dài 18 chữ, câu thứ hai dài 19 chữ, và câu thơ thứ ba dài nhất 20 chữ. Dường như nó cũng y chang những bài thơ văn xuôi tầm tầm khác, với nhiều sự phá cách, xuống dòng khá tự do, nhiều khi không còn theo luật lệ ngữ pháp thông thường.

Nhưng xem ra thì không phải, và càng ngẫm kỹ thì càng thấy là không phải.
Đằng sau cái vẻ ngoài phóng túng ấy, ẩn sâu trong nó, hóa ra vẫn là thơ đích thực. Chế Lan Viên đã rất khéo léo tài hoa, vượt qua cái căn bệnh trầm kha mà ta thường hay mắc phải ở những câu thơ văn xuôi kiểu đó - ấy là cái bệnh nhịp thơ nặng nề, các bước thơ không hòa hợp, nó giống như một trái tim bị bệnh, không thể xướng họa theo dòng cảm xúc lúc buồn lúc vui của thi nhân, khi bừng lên, khi chậm xuống.

Để dễ thấy sự tinh diệu này của Chế Lan Viên, bây giờ, dựa theo các mạch lạc ngữ nghĩa và liên kết ngữ pháp của đoạn thơ, ta hãy thử sắp xếp lại các câu thơ với những bước thơ như sau:
Xanh biếc màu xanh//
Biển như hàng nghìn mùa thu qua /
Còn để tâm hồn nằm đọng lại //

Sóng như nghìn trưa xanh //
trời đã tan xanh ra thành bể /
và thôi không trở lại làm trời //

Nếu núi là con trai/
thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương /
đã biến thành con gái //

Mỗi đêm hè /
da thịt sóng sinh sôi //

Tách hợp đoạn thơ lại theo cách như ở trên, khôi phục lại cấu trúc, câu cú của nó, giống như khi ta vẫn làm khi thưởng thức một đoạn văn xuôi tài hoa vậy, ngay lập tức cái diện mạo thực của đoạn thơ hiển lộ ra trước mắt ta. Hóa ra rằng, kỳ thực, trong nội bộ mỗi dòng thơ, Chế Lan Viên đều có tính toán phân nhịp, chia cắt thành những bước thơ.

Đoạn thơ tuy có 04 câu nhưng có tới 11 bước thơ, mỗi bước đều được ông hạn định về số lượng tiếng (chữ), chủ đạo là nhịp 05 và 07 tiếng (như thể ngũ ngôn và thất ngôn điển hình một thời Thơ Mới). Thêm nữa, cả ba câu thứ nhất, thứ hai và thứ ba đều gồm 03 nhịp như nhau, chỉ riêng câu cuối là 02 nhịp. Cụ thể như sau:

+ Câu thứ nhất: 03 nhịp
            - bước 1: 04 tiếng: Xanh biếc màu xanh
            - bước 2: 07 tiếng: biển như hàng nghìn mùa thu qua
            - bước 3: 07 tiếng: còn để tâm hồn nằm đọng lại
+ Câu thứ hai: 03 nhịp
            - bước 4: 05 tiếng: Sóng như nghìn trưa xanh
            - bước 5: 07 tiếng: trời đã tan xanh ra thành bể
            - bước 6: 07 tiếng: và thôi không trở lại làm trời
+ Câu thứ ba: 03 nhịp
            - bước 7: 05 tiếng: Nếu núi là con trai
            - bước 8: 10 tiếng: thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương
            - bước 9: 05 tiếng: đã biến thành con gái
+ Câu thứ tư: 02 nhịp
            - bước 10: 03 tiếng: Mỗi đêm hè
            - bước 11: 05 tiếng: da thịt sóng sinh sôi

Tất cả những điều ấy làm cho đoạn thơ văn xuôi dường như quay trở về với lối thơ cách luật truyền thống, đọc lên đích thực có tiết tấu, nghe uyển chuyển và du dương.
Nhưng tài hoa Chế Lan Viên trong đoạn thơ đang dẫn không chỉ hiện hữu ở cái nghệ thuật tạo ra tiết điệu của thơ, mà còn ở những dụng công khác, ở những thủ pháp khác của ông.

Bên cạnh nhịp điệu, trước hết, phải nói tới vần điệu, một yếu tố quan trọng khác, làm nên nhạc tính của thơ.
Thơ văn xuôi thường được xếp cùng một ô, thậm chí đánh đồng với thơ không vần - trong nhiều nghiên cứu về thơ người ta vẫn hay viết vậy.
Nhưng điều này không hẳn đúng với Chế Lan Viên, ông là một trường hợp ngoại lệ, bởi thơ văn xuôi của ông có vần, và có vần rất khéo léo, tài hoa. Hãy trở lại đoạn thơ đã trích của ông (mà ta đã sắp xếp lại ở trên):

Xanh biếc màu xanh
bể như hàng nghìn mùa thu qua
còn để tâm hồn nằm đọng lại

Sóng như nghìn trưa xanh
trời đã tan xanh ra thành bể
và thôi không trở lại làm trời

Nếu núi là con trai
thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương
đã biến thành con gái

Mỗi đêm hè
da thịt sóng sinh sôi


Một cách hiển thị, ta có thể dễ dàng nhận ra 04 cặp vần của ông, lần lượt từ câu thơ đầu đến câu thơ cuối như sau: lại/ trời/ gái/ sôi. Nếu đi xuống một nấc cấu trúc nữa, đến các bước thơ, thì số các vần này sẽ tăng lên tới ở 07 vị trí: xanh/ lại/ xanh/ trời/ trai/ gái/ sôi.

Tất cả đoạn có 11 bước thơ mà có tới 07 bước có vần như thế, khi bắt vần xa khi bắt vần gần, được khéo léo ngụy trang trong những câu thơ văn xuôi dài 20 chữ, tưởng như thơ không vần, thực là tài hoa vậy thay!

Bảy bước vần ấy lại được âm vang thêm nhờ vào cách Chế Lan Viên sử dụng phép lặp từ trong nội bộ mỗi bước thơ và giữa các dòng thơ. Phép này làm cho nhịp thơ dễ được tạo ra hơn và làm cho nhạc tính của đoạn thơ được tăng thêm nhờ vào sự cộng hưởng âm thanh: cứ mỗi lần ta nghe một từ được lặp lại trong câu thơ thì cũng giống như mỗi lần ta hú trong rừng vắng và nghe tiếng vọng của ta hồi âm lại từ vách núi cao. Những âm thanh nối nhau, nương tựa vào nhau, hô ứng cho nhau, như những làn sóng gợn, đuổi nhau trên mặt hồ thu.

Hãy xem những dòng thơ có chứa các từ được Chế Lan Viên lặp lại (in đậm), chúng chỉ gồm 07 tiếng nhưng xuất hiện dày đặc trong mỗi dòng, tới 17 lần trong tổng số 57 tiếng (chữ) của cả đoạn. Cụ thể là: “xanh” - 04 lần, “bể” - 03 lần, “nghìn” - 02 lần, “trời” - 02 lần, “con” - 02 lần, “là” - 02 lần, “đã” - 02 lần:

Xanh biếc màu xanh
bể như hàng nghìn mùa thu qua
còn để tâm hồn nằm đọng lại
Sóng như nghìn trưa xanh
trời đã tan xanh ra thành bể
và thôi không trở lại làm trời
Nếu núi là con trai
thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương
đã biến thành con gái


Một yếu tố quan trọng khác, cùng với nhịp điệu và vần điệu, làm nên nhạc tính của thơ, đó là thanh điệu. Cần chú ý rằng: tất cả những khái niệm như “nhạc điệu”, “âm điệu” của một câu thơ, một đoạn thơ, hay cả bài thơ, đều là dựa trên ý niệm cơ bản về sự trầm bổng, cao thấp của các âm thanh, mà điều này thì gắn kết chặt chẽ với thanh điệu vốn là sự lên giọng hay xuống giọng trong lời.

Khác với tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Chăm v.v…, tiếng Việt là một ngôn ngữ có thanh điệu; bởi vậy đi tìm nhạc tính của thơ tiếng Việt không thể không đặc biệt chú trọng tới 06 thanh điệu của nó, bao gồm: thanh Ngang (không được ghi dấu trên chữ viết), thanh Huyền, thanh Sắc, thanh Nặng, thanh Hỏi, thanh Ngã.

Một trong những quy luật hòa phối thanh điệu của thơ tiếng Việt là phải có sự đăng đối, đắp đổi về thanh: hoặc giữa các thanh Bằng (Ngang, Huyền) với các thanh Trắc (Sắc, Nặng, Hỏi, Ngã), hoặc giữa thanh Bằng Cao (thanh Ngang) với thanh Bằng Thấp (thanh Huyền), ở các tiếng (chữ) đứng cuối mỗi bước thơ.

Những câu thơ hay thường có sự “đổi thanh” như vậy. Hãy nhớ lại Xuân Diệu (chú ý những chỗ in đậm) thời Thơ Mới:

Mây biếc về đâu/ bay gấp gấp
Con cò trên ruộng/ cánh phân vân

và Hàn Mạc Tử:
Khách xa/ gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng/ chợt nhớ làng
và Huy Cận:
Gió về/ lòng rộng không che
Hơi may hiu hắt/ bốn bề tâm
và bản thân Chế Lan Viên thời ấy:
Ai đâu/ trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi/ những lá vàng


Nhưng, hãy trở lại với đoạn thơ đang xét của Chế Lan Viên. Ta cũng thấy ở đây, trong mỗi câu thơ, cuối mỗi bước thơ, các tiếng (in đậm) thường có sự đổi thanh Bằng - Trắc, Cao - Thấp với nhau:
Xanh biếc màu xanh// bể như hàng nghìn mùa thu qua /
còn để tâm hồn nằm đọng lại
Sóng như nghìn trưa xanh // trời đã tan xanh ra thành bể /
và thôi không trở lại làm trời
Nếu núi là con trai/ thi bể là phần yểu điệu nhất của quê hương/
đã biến thành con gái
Mỗi đêm hè / da thịt sóng sinh sôi

Và cũng như một số nhà thơ tài danh khác, Chế Lan Viên rất chú ý tới sự phân bổ và hòa phối thanh điệu giữa các tiếng trong mỗi dòng thơ. Trong trường hợp này, có thể thấy ông đã sử dụng phép đổi thanh giữa hai tiếng bắt đầu và kết thúc một bước thơ (những chữ in đậm):

Xanh biếc màu xanh //
bể như hàng nghìn mùa thu qua /
còn để tâm hồn nằm đọng lại //

Sóng như nghìn trưa xanh //
trời đã tan xanh ra thành bể /
thôi không trở lại làm trời //

Nếu núi là con trai/
thì
bể là phần yểu điệu nhất của quê hương /
đã biến thành con gái //

Mỗi đêm hè /
da thịt sóng sinh sôi//

Đoạn thơ gồm 11 bước nhưng có tới 07 bước tuân thủ quy luật đổi thanh Bằng - Trắc, cụ thể là như sau:
- bước 2: bể … qua
- bước 3: còn … lại
- bước 4: Sóng … xanh
- bước 5: trời … bể
- bước 7: Nếu … trai
- bước 8: thì … hương
- bước 10: Mỗi … hè
chỉ có 04 bước là có sự trùng thanh:
- bước 1: Xanh … xanh
- bước 6: và … trời
- bước 9: đã … gái
- bước 11: da … sôi

Nhưng cần thấy rằng đó là do tình ý của câu thơ buộc Chế Lan Viên phải chọn dùng những từ có thanh như vậy; và hơn nữa, ông đã rất dụng công xếp những bước thơ có sự trùng thanh này không đi sát cạnh nhau liên tiếp, nhờ vậy chúng không làm hỏng cái âm hưởng chung của câu thơ và cả đoạn thơ.

Để thấy rõ hơn tài thơ Chế Lan Viên ở đây, ta hãy thử mạo muội thay đổi thanh điệu và câu chữ ở một vài chỗ trong đoạn thơ và ta sẽ thấy ngay nhãn tiền cái hậu quả âm điệu tồi tệ của nó:
+ Nguyên văn:
Sóng như nghìn trưa xanh
trời đã tan xanh ra thành bể
và thôi không trở lại làm trời
+ Cải biên:
Mây như nghìn trưa xanh
mây đã tan xanh ra thành trời
và thôi không trở lại làm mây

Đổi thanh để đạt đến sự khác biệt, không trùng lặp về thanh điệu, làm cho câu thơ lên bổng xuống trầm, là một sự dụng công bậc thầy của Chế Lan Viên trong lối thơ văn xuôi ở “Ánh sáng và phù sa”. Hãy xem thêm điều này trong một trích đoạn khác, cũng rất nổi tiếng của ông:

Một mùi hương/ của rừng hồng hoang cổ đại/ khi rừng chết đi/ thì ánh nắng/ mùi hoa/ lời chim/ chất nhựa/ cũng vùi theo

Mùa xuân không biết/ không hay/ sáng ấy / vẫn lấy máu mình/ nuôi mạch lá



Với “Ánh sáng và phù sa”, Chế Lan Viên đã làm một cuộc hành trình “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”.
Hơn thế nữa, có thể nói, ông đã thực hiện một chuyến bay thể nghiệm, từ khung trời thơ cách luật ra khoảng trời thơ tự do, và xa hơn, sang nẻo trời của thơ văn xuôi, rất thành công.
Nhưng… trời rất cao, rất xa và rất rộng.
Thơ ông vẫn không khỏi có chỗ vấn vương trong vòng truyền thống, với những khuôn thước thi luật ngàn năm.

Cho dù vậy, thì mấy ai đã có được những câu “văn xuôi về một vùng thơ” hay như của ông, đẹp như của ông, khéo léo và tài hoa như của ông, làm cho ông trở thành một trong số đôi ba nhà thơ ít ỏi đã có công dựng nên nền thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Còn gì quý hơn điều ấy với một nhà thơ!

Hà Nội, tháng Chạp 2007
L.T.T
(245/07-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.