Thơ văn xuôi của Chế Lan Viên

10:29 31/08/2009
LÝ TOÀN THẮNG“Văn xuôi về một vùng thơ” là một thể nghiệm thành công của Chế Lan Viên trong “Ánh sáng và phù sa”, về lối thơ tự do, mở rộng từ thấp lên cao - từ đơn vị cấu thành nhỏ nhất là Bước thơ, đến Câu thơ, rồi Đoạn thơ, và cuối cùng là cả Bài thơ.

Nhà thơ Chế Lan Viên - Ảnh: baoquangtri.vn

Đặc biệt là nghệ thuật thơ của bài “Cành phong lan bể”. Ta ngỡ ngàng khi đọc những câu thơ theo lối tự do này của ông: chúng đẹp cả về ngôn từ và tình ý, chúng khiến ta phải nghĩ khác đi về cái ta quen gọi là “Thơ Văn xuôi” - vốn thường hay bị coi như một thứ thơ “không vần” (và không hiếm khi được thực hiện bởi một bản lĩnh thơ xoàng nhưng lại nhân danh một tư duy nghệ thuật mới).

Thơ, cho dù là dưới bất kỳ hình thức nào - thơ cách luật, thơ tự do, thơ không vần - nó vẫn khác văn xuôi ở chỗ: bao giờ nó cũng phải có “nhạc điệu/nhạc tính” là cái vốn có được trước hết do sự hòa hợp khéo léo về thanh âm, sự lặp lại một cách tuần hoàn các âm thanh mạnh nhẹ hay cao thấp (mà ta quen gọi là “âm điệu”, “nhịp điệu”/ “tiết tấu”), gây khiến được ở nơi người đọc những ấn tượng, những cảm giác cần có.

Thơ không thể hay, nếu nhà thơ không giữ được cho câu thơ, đoạn thơ, bài thơ một nhịp thơ, bước thơ thích hợp.
Hãy thử xem một đoạn thơ sau, trong bài “Cành phong lan bể”, rất nổi tiếng của Chế Lan Viên, thường được trích dẫn như tiêu biểu cho phong cách thơ văn xuôi của ông. Đoạn thơ này nguyên văn trong bản in năm 1960 như sau:
Xanh biếc màu xanh, bể như hàng nghìn mùa thu qua còn để tâm hồn nằm đọng lại
Sóng như nghìn trưa xanh trời đã tan xanh ra thành bể và thôi không trở lại làm trời
Nếu núi là con trai thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương đã biến thành con gái
Mỗi đêm hè da thịt sóng sinh sôi

Thoạt nhìn đoạn thơ trích dẫn trên, với những câu thơ dài suýt soát 20 chữ, rõ ràng không phải là lối thơ cách luật truyền thống. Nó khiến ta tưởng như Chế Lan Viên đang làm một thứ thơ rất tự do, rất mới, rất khác. Có vẻ như đây không phải là thơ đích thực, mà là một cái gì đó từa tựa như cái ông đã đặt tên cho nó: văn xuôi về một vùng thơ!

Cả đoạn thơ, bề ngoài, Chế Lan Viên chỉ xuống dòng và nối dòng thành có 04 câu thơ tự do khá dài: ngoại trừ câu cuối ngắn nhất là 08 chữ, ba câu còn lại có độ dài tăng tiến dần lên - câu thơ thứ nhất dài 18 chữ, câu thứ hai dài 19 chữ, và câu thơ thứ ba dài nhất 20 chữ. Dường như nó cũng y chang những bài thơ văn xuôi tầm tầm khác, với nhiều sự phá cách, xuống dòng khá tự do, nhiều khi không còn theo luật lệ ngữ pháp thông thường.

Nhưng xem ra thì không phải, và càng ngẫm kỹ thì càng thấy là không phải.
Đằng sau cái vẻ ngoài phóng túng ấy, ẩn sâu trong nó, hóa ra vẫn là thơ đích thực. Chế Lan Viên đã rất khéo léo tài hoa, vượt qua cái căn bệnh trầm kha mà ta thường hay mắc phải ở những câu thơ văn xuôi kiểu đó - ấy là cái bệnh nhịp thơ nặng nề, các bước thơ không hòa hợp, nó giống như một trái tim bị bệnh, không thể xướng họa theo dòng cảm xúc lúc buồn lúc vui của thi nhân, khi bừng lên, khi chậm xuống.

Để dễ thấy sự tinh diệu này của Chế Lan Viên, bây giờ, dựa theo các mạch lạc ngữ nghĩa và liên kết ngữ pháp của đoạn thơ, ta hãy thử sắp xếp lại các câu thơ với những bước thơ như sau:
Xanh biếc màu xanh//
Biển như hàng nghìn mùa thu qua /
Còn để tâm hồn nằm đọng lại //

Sóng như nghìn trưa xanh //
trời đã tan xanh ra thành bể /
và thôi không trở lại làm trời //

Nếu núi là con trai/
thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương /
đã biến thành con gái //

Mỗi đêm hè /
da thịt sóng sinh sôi //

Tách hợp đoạn thơ lại theo cách như ở trên, khôi phục lại cấu trúc, câu cú của nó, giống như khi ta vẫn làm khi thưởng thức một đoạn văn xuôi tài hoa vậy, ngay lập tức cái diện mạo thực của đoạn thơ hiển lộ ra trước mắt ta. Hóa ra rằng, kỳ thực, trong nội bộ mỗi dòng thơ, Chế Lan Viên đều có tính toán phân nhịp, chia cắt thành những bước thơ.

Đoạn thơ tuy có 04 câu nhưng có tới 11 bước thơ, mỗi bước đều được ông hạn định về số lượng tiếng (chữ), chủ đạo là nhịp 05 và 07 tiếng (như thể ngũ ngôn và thất ngôn điển hình một thời Thơ Mới). Thêm nữa, cả ba câu thứ nhất, thứ hai và thứ ba đều gồm 03 nhịp như nhau, chỉ riêng câu cuối là 02 nhịp. Cụ thể như sau:

+ Câu thứ nhất: 03 nhịp
            - bước 1: 04 tiếng: Xanh biếc màu xanh
            - bước 2: 07 tiếng: biển như hàng nghìn mùa thu qua
            - bước 3: 07 tiếng: còn để tâm hồn nằm đọng lại
+ Câu thứ hai: 03 nhịp
            - bước 4: 05 tiếng: Sóng như nghìn trưa xanh
            - bước 5: 07 tiếng: trời đã tan xanh ra thành bể
            - bước 6: 07 tiếng: và thôi không trở lại làm trời
+ Câu thứ ba: 03 nhịp
            - bước 7: 05 tiếng: Nếu núi là con trai
            - bước 8: 10 tiếng: thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương
            - bước 9: 05 tiếng: đã biến thành con gái
+ Câu thứ tư: 02 nhịp
            - bước 10: 03 tiếng: Mỗi đêm hè
            - bước 11: 05 tiếng: da thịt sóng sinh sôi

Tất cả những điều ấy làm cho đoạn thơ văn xuôi dường như quay trở về với lối thơ cách luật truyền thống, đọc lên đích thực có tiết tấu, nghe uyển chuyển và du dương.
Nhưng tài hoa Chế Lan Viên trong đoạn thơ đang dẫn không chỉ hiện hữu ở cái nghệ thuật tạo ra tiết điệu của thơ, mà còn ở những dụng công khác, ở những thủ pháp khác của ông.

Bên cạnh nhịp điệu, trước hết, phải nói tới vần điệu, một yếu tố quan trọng khác, làm nên nhạc tính của thơ.
Thơ văn xuôi thường được xếp cùng một ô, thậm chí đánh đồng với thơ không vần - trong nhiều nghiên cứu về thơ người ta vẫn hay viết vậy.
Nhưng điều này không hẳn đúng với Chế Lan Viên, ông là một trường hợp ngoại lệ, bởi thơ văn xuôi của ông có vần, và có vần rất khéo léo, tài hoa. Hãy trở lại đoạn thơ đã trích của ông (mà ta đã sắp xếp lại ở trên):

Xanh biếc màu xanh
bể như hàng nghìn mùa thu qua
còn để tâm hồn nằm đọng lại

Sóng như nghìn trưa xanh
trời đã tan xanh ra thành bể
và thôi không trở lại làm trời

Nếu núi là con trai
thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương
đã biến thành con gái

Mỗi đêm hè
da thịt sóng sinh sôi


Một cách hiển thị, ta có thể dễ dàng nhận ra 04 cặp vần của ông, lần lượt từ câu thơ đầu đến câu thơ cuối như sau: lại/ trời/ gái/ sôi. Nếu đi xuống một nấc cấu trúc nữa, đến các bước thơ, thì số các vần này sẽ tăng lên tới ở 07 vị trí: xanh/ lại/ xanh/ trời/ trai/ gái/ sôi.

Tất cả đoạn có 11 bước thơ mà có tới 07 bước có vần như thế, khi bắt vần xa khi bắt vần gần, được khéo léo ngụy trang trong những câu thơ văn xuôi dài 20 chữ, tưởng như thơ không vần, thực là tài hoa vậy thay!

Bảy bước vần ấy lại được âm vang thêm nhờ vào cách Chế Lan Viên sử dụng phép lặp từ trong nội bộ mỗi bước thơ và giữa các dòng thơ. Phép này làm cho nhịp thơ dễ được tạo ra hơn và làm cho nhạc tính của đoạn thơ được tăng thêm nhờ vào sự cộng hưởng âm thanh: cứ mỗi lần ta nghe một từ được lặp lại trong câu thơ thì cũng giống như mỗi lần ta hú trong rừng vắng và nghe tiếng vọng của ta hồi âm lại từ vách núi cao. Những âm thanh nối nhau, nương tựa vào nhau, hô ứng cho nhau, như những làn sóng gợn, đuổi nhau trên mặt hồ thu.

Hãy xem những dòng thơ có chứa các từ được Chế Lan Viên lặp lại (in đậm), chúng chỉ gồm 07 tiếng nhưng xuất hiện dày đặc trong mỗi dòng, tới 17 lần trong tổng số 57 tiếng (chữ) của cả đoạn. Cụ thể là: “xanh” - 04 lần, “bể” - 03 lần, “nghìn” - 02 lần, “trời” - 02 lần, “con” - 02 lần, “là” - 02 lần, “đã” - 02 lần:

Xanh biếc màu xanh
bể như hàng nghìn mùa thu qua
còn để tâm hồn nằm đọng lại
Sóng như nghìn trưa xanh
trời đã tan xanh ra thành bể
và thôi không trở lại làm trời
Nếu núi là con trai
thì bể là phần yểu điệu nhất của quê hương
đã biến thành con gái


Một yếu tố quan trọng khác, cùng với nhịp điệu và vần điệu, làm nên nhạc tính của thơ, đó là thanh điệu. Cần chú ý rằng: tất cả những khái niệm như “nhạc điệu”, “âm điệu” của một câu thơ, một đoạn thơ, hay cả bài thơ, đều là dựa trên ý niệm cơ bản về sự trầm bổng, cao thấp của các âm thanh, mà điều này thì gắn kết chặt chẽ với thanh điệu vốn là sự lên giọng hay xuống giọng trong lời.

Khác với tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Chăm v.v…, tiếng Việt là một ngôn ngữ có thanh điệu; bởi vậy đi tìm nhạc tính của thơ tiếng Việt không thể không đặc biệt chú trọng tới 06 thanh điệu của nó, bao gồm: thanh Ngang (không được ghi dấu trên chữ viết), thanh Huyền, thanh Sắc, thanh Nặng, thanh Hỏi, thanh Ngã.

Một trong những quy luật hòa phối thanh điệu của thơ tiếng Việt là phải có sự đăng đối, đắp đổi về thanh: hoặc giữa các thanh Bằng (Ngang, Huyền) với các thanh Trắc (Sắc, Nặng, Hỏi, Ngã), hoặc giữa thanh Bằng Cao (thanh Ngang) với thanh Bằng Thấp (thanh Huyền), ở các tiếng (chữ) đứng cuối mỗi bước thơ.

Những câu thơ hay thường có sự “đổi thanh” như vậy. Hãy nhớ lại Xuân Diệu (chú ý những chỗ in đậm) thời Thơ Mới:

Mây biếc về đâu/ bay gấp gấp
Con cò trên ruộng/ cánh phân vân

và Hàn Mạc Tử:
Khách xa/ gặp lúc mùa xuân chín
Lòng trí bâng khuâng/ chợt nhớ làng
và Huy Cận:
Gió về/ lòng rộng không che
Hơi may hiu hắt/ bốn bề tâm
và bản thân Chế Lan Viên thời ấy:
Ai đâu/ trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi/ những lá vàng


Nhưng, hãy trở lại với đoạn thơ đang xét của Chế Lan Viên. Ta cũng thấy ở đây, trong mỗi câu thơ, cuối mỗi bước thơ, các tiếng (in đậm) thường có sự đổi thanh Bằng - Trắc, Cao - Thấp với nhau:
Xanh biếc màu xanh// bể như hàng nghìn mùa thu qua /
còn để tâm hồn nằm đọng lại
Sóng như nghìn trưa xanh // trời đã tan xanh ra thành bể /
và thôi không trở lại làm trời
Nếu núi là con trai/ thi bể là phần yểu điệu nhất của quê hương/
đã biến thành con gái
Mỗi đêm hè / da thịt sóng sinh sôi

Và cũng như một số nhà thơ tài danh khác, Chế Lan Viên rất chú ý tới sự phân bổ và hòa phối thanh điệu giữa các tiếng trong mỗi dòng thơ. Trong trường hợp này, có thể thấy ông đã sử dụng phép đổi thanh giữa hai tiếng bắt đầu và kết thúc một bước thơ (những chữ in đậm):

Xanh biếc màu xanh //
bể như hàng nghìn mùa thu qua /
còn để tâm hồn nằm đọng lại //

Sóng như nghìn trưa xanh //
trời đã tan xanh ra thành bể /
thôi không trở lại làm trời //

Nếu núi là con trai/
thì
bể là phần yểu điệu nhất của quê hương /
đã biến thành con gái //

Mỗi đêm hè /
da thịt sóng sinh sôi//

Đoạn thơ gồm 11 bước nhưng có tới 07 bước tuân thủ quy luật đổi thanh Bằng - Trắc, cụ thể là như sau:
- bước 2: bể … qua
- bước 3: còn … lại
- bước 4: Sóng … xanh
- bước 5: trời … bể
- bước 7: Nếu … trai
- bước 8: thì … hương
- bước 10: Mỗi … hè
chỉ có 04 bước là có sự trùng thanh:
- bước 1: Xanh … xanh
- bước 6: và … trời
- bước 9: đã … gái
- bước 11: da … sôi

Nhưng cần thấy rằng đó là do tình ý của câu thơ buộc Chế Lan Viên phải chọn dùng những từ có thanh như vậy; và hơn nữa, ông đã rất dụng công xếp những bước thơ có sự trùng thanh này không đi sát cạnh nhau liên tiếp, nhờ vậy chúng không làm hỏng cái âm hưởng chung của câu thơ và cả đoạn thơ.

Để thấy rõ hơn tài thơ Chế Lan Viên ở đây, ta hãy thử mạo muội thay đổi thanh điệu và câu chữ ở một vài chỗ trong đoạn thơ và ta sẽ thấy ngay nhãn tiền cái hậu quả âm điệu tồi tệ của nó:
+ Nguyên văn:
Sóng như nghìn trưa xanh
trời đã tan xanh ra thành bể
và thôi không trở lại làm trời
+ Cải biên:
Mây như nghìn trưa xanh
mây đã tan xanh ra thành trời
và thôi không trở lại làm mây

Đổi thanh để đạt đến sự khác biệt, không trùng lặp về thanh điệu, làm cho câu thơ lên bổng xuống trầm, là một sự dụng công bậc thầy của Chế Lan Viên trong lối thơ văn xuôi ở “Ánh sáng và phù sa”. Hãy xem thêm điều này trong một trích đoạn khác, cũng rất nổi tiếng của ông:

Một mùi hương/ của rừng hồng hoang cổ đại/ khi rừng chết đi/ thì ánh nắng/ mùi hoa/ lời chim/ chất nhựa/ cũng vùi theo

Mùa xuân không biết/ không hay/ sáng ấy / vẫn lấy máu mình/ nuôi mạch lá



Với “Ánh sáng và phù sa”, Chế Lan Viên đã làm một cuộc hành trình “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”.
Hơn thế nữa, có thể nói, ông đã thực hiện một chuyến bay thể nghiệm, từ khung trời thơ cách luật ra khoảng trời thơ tự do, và xa hơn, sang nẻo trời của thơ văn xuôi, rất thành công.
Nhưng… trời rất cao, rất xa và rất rộng.
Thơ ông vẫn không khỏi có chỗ vấn vương trong vòng truyền thống, với những khuôn thước thi luật ngàn năm.

Cho dù vậy, thì mấy ai đã có được những câu “văn xuôi về một vùng thơ” hay như của ông, đẹp như của ông, khéo léo và tài hoa như của ông, làm cho ông trở thành một trong số đôi ba nhà thơ ít ỏi đã có công dựng nên nền thơ văn xuôi Việt Nam hiện đại.
Còn gì quý hơn điều ấy với một nhà thơ!

Hà Nội, tháng Chạp 2007
L.T.T
(245/07-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.