Thơ thiền Lý - Trần - nguồn tư duy minh triết

15:35 29/04/2009
HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

Chấm dứt đêm trường ngàn năm Bắc thuộc, mở ra một thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài, công ấy do Ngô Vương Quyền. Nhưng chỉ ít năm sau, lại cát cứ, xâu xé, tranh giành. Dẹp xong loạn 12 sứ quân, lên ngôi hoàng đế, đến lượt cha con Đinh Tiên Hoàng bị ám hại. Cái chết của cha con ông tới nay vẫn còn là một nghi án.
Được ngôi nước, Lê Hoàn trong lòng vẫn chưa hết lo sợ. Đem nỗi lo ấy hỏi một bậc thiền sư lỗi lạc. Hẳn Lê Hoàn chỉ mong Đỗ Pháp Thuận chỉ cho ông giải pháp đối phó với các phe đối lập, đối phó với các sách động người Mường ở Thanh Hoá, người Nùng ở Cao Bằng, Lạng Sơn thường nổi dậy cướp phá, chống lại quan quân, và cả sự đe dọa của nhà Tống.

Thay vì "Đáp quốc vương quốc tộ chi vấn", (tức là trả lời vào điều Lê Hoàn hỏi về tương lai của "ngôi nước"; ngôi nước ở đây chính là vị trí của nhà vua); thiền sư đọc luôn cho vua nghe một bài kệ, nhằm vào chủ đề vua hỏi.
            Quốc tộ như đằng lạc
            Nam thiên lý thái bình
            Vô tri cư điện các
            Xứ xứ tức đao binh
.
Nghĩa là:
            Ngôi nước như dây leo quấn quít
            Ở góc trời Nam (mở ra) cảnh thái bình
            (Dùng đường lối) vô vi nơi cung điện
            Thì khắp mọi nơi đều tắt hết đao binh.


Nhà thiền học khuyên vua, muốn giữ được ngôi nước thì phải đoàn kết (vừa là đoàn kết trong nội bộ triều đình, vừa là đoàn kết dân tộc), như loài dây leo xoắn xuýt vào nhau thì mới có sức mạnh.

Hàng ngàn dặm đất của cõi trời Nam này, muốn có cảnh thái bình thịnh trị thì đường lối hành xử của nhà vua thể hiện nơi triều chính, phải là "đường lối vô vi". Làm được vậy, không cần phải đánh dẹp, tự nhiên nước sẽ an lạc. Vô vi mà Đỗ Pháp Thuận nói ở đây không có nghĩa là không hành động; nhà thiền nói "vô vi", thì nên hiểu đó là "vô ngã".

Tóm lại, bậc quốc sĩ, nhà thiền học lỗi lạc Đỗ Pháp Thuận đã khuyên hoàng đế Lê Hoàn khi ông hỏi về "ngôi nước" gồm các vấn đề mang tính chiến lược hơn là các biện pháp ứng phó mang tính chiến thuật.
1) Đoàn kết nội bộ, đoàn kết dân tộc xung quanh nhà vua.
2) Chính sách của nhà vua được thể hiện qua bộ máy cai trị, phải bộc lộ được sự trong sạch của triều đình, thì đó sẽ là nguồn gốc của thái bình, an lạc.

Có lẽ thiền sư Đỗ Pháp Thuận, là một trong những nhà Phật học đầu tiên ở nước ta, tạo tiền đề cho đạo gắn với đời, tham gia tích cực vào mọi mặt trong đời sống xã hội, cả về văn hoá và chính trị theo hướng tiến bộ. Và vì thế, gần nửa thiên niên kỷ bắt đầu từ nhà tiền Lê đến kết thúc triều đại nhà Trần, Phật giáo nước ta trở thành một nhân tố cấu thành trong việc xây dựng đất nước giầu, thịnh và vững mạnh.
Tinh thần đó được thể hiện trong hàng loạt thơ thiền kéo dài suốt từ Lê - Lý sang Trần.
Ta biết các thiền sư cuối Lê đầu Lý, đã có tác động tích cực thế nào vào việc làm nảy sinh một triều đại mới. Đó là vai trò của các thiền sư Đa Bảo, Khánh Văn, đặc biệt là sư Vạn Hạnh.

Đó cũng chính là sự vạn bất đắc dĩ các thiền sư buộc phải tham gia vào việc diệt trừ cái ác, tựa như sau này, Tuệ Trung thượng sĩ Trần Quốc Tung hai lần thân làm tướng trực tiếp cầm quân đánh giặc Nguyên - Mông hồi cuối thế kỷ 13.
Khi thế nước đã bình ổn, các vị thiền sư lại chuyên tâm tu đạo.
Vạn Hạnh, cha đẻ của vương triều Lý, khi Lý Công Uẩn đã điều khiển triều chính vững vàng rồi, dường như ông không quan tâm đến các vấn đề chính trị nữa.
Các nhà trí thức Phật giáo cách ta gần 10 thế kỷ, có nhân sinh quan và vũ trụ quan dường như rất gần gũi với chúng ta ngày nay.
Thiền sư Vạn Hạnh khi sắp viên tịch, các đệ tử hỏi về Đạo, ông nói lời "kệ".
                        THỊ ĐỆ TỬ
            Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
            Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
            Nhâm vận thịnh suy vô bổ uý
            Thịnh suy như lộ thảo đầu phô
                       
BẢO CÁC HỌC TRÒ
            Thân như bóng chớp, có rồi không
            Cây cối xuân tươi, thu não nùng
            Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
            Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông
                                   
Ngô Tất Tố dịch

Vạn Hạnh chỉ cho đệ tử thấu hiểu quan niệm của nhà Phật là không chấp hữu, chẳng chấp vô. Ngay cái thân ta tưởng như là có, bỗng chốc đã là không, từ có đến không chỉ như một ánh chớp. Cả sự vận hành của thế giới sắc tướng kia, thịnh suy dời đổi có khác chi giọt sương trên đầu ngọn cỏ. Do vậy, việc sống chết, thịnh suy là lẽ thường hằng.
Có một điều thú vị là trong các đời Lý - Trần, rất nhiều các bậc vua anh minh kiêm triết gia, kiêm thiền sư. Trường hợp Lý Phật Mã (Lý Thái Tông 1000 - 1054) không là một biệt lệ. Quan niệm của ông về thời gian và không gian, là một thứ không gian và thời gian rất gần gụi với thuyết tương đối ngày nay. Trong bài kệ truy tán vị tổ của dòng thiền Tì-ni-đa-lưu-chi, đã mất hơn 400 năm trước khi ông được sinh ra. Vậy mà ông viết cứ như một nhà vật lý học thời nay;
            ...
            Hạo hạo Lăng Già nguyệt
            Phân phân Bát Nhã liên
            Hà thì lân diện kiến
            Tương dữ thoại trùng huyền.

Dịch nghĩa:
            (Trăng Lăng Già vằng vặc
            Sen Bát Nhã thơm truyền
            Biết bao giờ gặp mặt
            Cùng nhau nói đạo huyền)
Dịch thơ:
            Lăng Già ngời bóng nguyệt
            Bát Nhã nức mùi sen
            Họp mặt chừng bao tá
            Cùng nhau bàn lẽ huyền.
                                   
Ngô Tất Tố dịch

Triết lý đời Lý qua thơ thiền, khẳng định cái khả biến và cái bất biến trong thế giới vi mô và vĩ mô.
Cái khả biến là thế giới hình tướng, sắc tướng; cái bất biến là đạo, là qui luật của tự nhiên.
Trong bài "Thị đệ tử Bản Tịch", tức là bảo cho học trò là Bản Tịch, thiền sư Đào Thuân Châu viết:
            Chân tính thường vô tính
            Hà tằng hữu sinh diệt
            Thân thị sinh diệt pháp
            Pháp tính vị tằng diệt
Dịch
            Chân tính luôn luôn không có tính
            Nó chưa từng có sinh diệt
            Thân người là hiện tượng sinh diệt
            Những pháp tính thì chưa từng sinh diệt

Do nhận thức về qui luật sinh tử cũng như các qui luật khác của tự nhiên có tính bản thể luận như vậy, nên con người thời đó có lối sống rất hồn nhiên, và hoà đồng. Thái độ sống rất chủ động và tích cực. Thường là làm chủ bản thân, làm chủ xã hội và hoà hợp với thiên nhiên tạo vật.
Bài "Cáo tật thị chúng" của thiền sư Mãn Giác (1052 - 1096) ra đời gần một ngàn năm, mà sao ta có cảm giác như nó được viết vào thời nay.

Bốn câu đầu:
            Xuân khứ bách hoa lạc
            Xuân lai bách hoa khai
            Sự thực nhãn tiền quá
            Lão tòng đầu thượng lai
Nhằm nói về bốn núi, tức là bốn nỗi khổ của con người: sinh - lão - bệnh - tử thì ai cũng biết rồi. Bởi trong cuộc đời ai mà không trải qua bốn cảnh bất hạnh đó. Về bốn câu này thì nhiều thi nhân có thể viết được.
Nhưng hai câu cuối;
            Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
            Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
nhất định phải là một nhà thiền học uyên bác mới lập nổi tứ này, để bài thơ đạt tới giá trị vĩnh hằng, song nếu không phải là tài năng trác việt của một bậc thi thánh, thì không thể gói nổi cái tứ lớn lao kia trong 14 chữ, mà mỗi chữ đều như một viên kim cương lấp lánh.


Dịch thơ toàn bài:
            Xuân ruổi, trăm hoa rụng
            Xuân tới, trăm hoa cười
            Trước mắt, việc đi mãi
            Trên đầu, già đến rồi
            Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
            Đêm qua, sân trước một cành mai.
                                               
Ngô Tất Tố

Lại nữa, Trần Nhân Tông (1254 - 1308), khó ai mà tưởng tượng được một vị vua gần dân đến thế, một con người sống giữa cõi đời, sống giữa thiên nhiên và đã thực sự hoà vào với đời, hoà vào với thiên nhiên.
Đọc bài: "Thiên Trường vãn vọng", ta có cảm giác đích thị tác giả là một nông dân; hay chí ít là vị vua này sống không cách biệt với dân.
            Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên
            Bán vô, bán hữu, tịch dương biên
            Mục đồng địch lý ngưu qui tận
            Bạch lộ song song phi hạ điền
Dịch thơ
            Xóm trước, thôn sau nhạt khói lồng
            Bóng chiều nửa có nửa hư không
            Đi trong tiếng sáo trâu về hết
            Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
                                   
Ngô Tất Tố - Trần Lê Văn

Đọc tới bài "Nguyệt" tức "Trăng", ta cảm như tác giả là một hàn sĩ, hoặc một anh khoá nghèo nơi thôn dã đọc sách và thiếp ngủ đi lúc nào không biết.
Và cũng chẳng có ai săn sóc, hầu hạ:
            Bên song đèn rạng sách đầy giường,
            Khí lạnh, đêm thu, đượm giọt sương
            Thức giấc tiếng chày đã lặng ngắt
            Trên chùm hoa mộc nguyệt lồng gương.
Con người thi sĩ ấy, nhà vua anh hùng ấy thoắt cái bỏ ngôi vua như người ta quẳng đi một đôi dép rách, để đi tu thiền.


(Phật hoàng Trần Nhân Tông)

Việc tu đạo của Trần Nhân Tông không hề có mảy may thoát ly thế gian, cầu tìm sự yên nhàn cho thân tâm. Nhà vua đi tìm chân lý; khác với các triết gia cùng thời ở phương Tây, họ tìm chân lý qua thế giới hiện tượng, tức là tìm trong cái động; trái lại Trần Nhân Tông tìm chân lý trong cái tĩnh, tìm chính trong bản thân mình, trong lòng mình.
Nhà vua khuyên mọi người hãy trong lặng soi tìm vào chính mình, lôi cho bằng được ông Phật (tức chân lý) ở trong tâm mình ra, chớ có vọng động mà cầu tìm tha lực. Đó chính là giáo lý hướng nội.

Trong "Cư trần lạc đạo" đệ ngũ hội, ngài viết:
            Bụt ở trong nhà
            Chẳng phải tìm xa
            Nhân khuy bản (quên bản gốc)
            Nên ta tìm Bụt
            Chỉn mới hay
            Chính Bụt là ta
Chính ông là một thiền sư, lại tuyên cáo không cần thiền.
            "Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
            Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền
"
            (Trong nhà sẵn ngọc thôi tìm kiếm
            Lặng lòng đối cảnh hỏi chi thiền)

Và việc tu đạo chẳng có gì là khó, cứ sống giữa đời một cách vui vẻ, tuỳ cái duyên nó đến, tu được thì tu. Và việc tu này cũng tự nhiên như người đói thì ăn, mệt thì ngủ, có chi phải nhiêu khê, phiền toái.
            "Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên
            Cơ tắc thực hề, khốn tắc miên
"

Và Tuệ Trung thượng sĩ, bậc thầy của Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân tông cũng chỉ cho người học đạo một quan điểm tu tập rất thoáng đãng:
            THỊ HỌC
            (Gợi bảo người học đạo)
            Học giả phân phân bất nại hà
            Đồ tương linh đích khổ tương ma
            Báo quân hữu ỷ tha môn hộ
            Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa

Dịch thơ:
            Hoa đạo mênh mang ai có hay
            Gạch đem mài gạch cực lắm thay
            Cửa người anh hãy thôi nương dựa
            Một áng xuân về hoa đó đây
                                   
Đỗ Văn Hỷ

Rõ ràng là thơ thiền cũng như thiền học các đời Lý-Trần là một minh chứng cho thấy con người thời đó sống tự tin, tự cường, sống hoà hợp với thiên nhiên, vua sống gần dân, vua với dân cùng chung sức chung lòng, chung lo việc xây dựng đất nước và bảo vệ đất nước.

Vì sao Đại Việt thời đó có được các thành tựu ấy? Trước hết phải tự hào mà nói rằng, Đại Việt vào thời điểm lịch sử đó, xuất hiện nhiều bậc trí thức Phật giáo vừa là các nhà thiền học lỗi lạc, vừa là các bậc vua chúa anh minh. Những vị vua kiêm triết gia ấy cùng với các bậc trí tuệ đã xây dựng được một nền Việt Phật, một dòng thiền hướng nội, đã khai phóng được sức mạnh tiềm ẩn trong mỗi con người, kết thành nội lực vô song của toàn dân tộc.

Chính vì tính hướng nội của thiền học được coi như một hệ tư tưởng chính thống của thời đại, nên các đời Lý-Trần đã triệt để khai thác được sức mạnh nội lực, tuyệt nhiên không dựa vào tha lực, vì vậy sức tự cường của dân tộc rất lớn.Và cũng vì vậy mà các đế quốc xâm lược hung hãn như Tống, như Nguyên-Mông đều lần lượt bị đánh bại.

Ở đây phải thừa nhận Phật giáo đã dựa vào sức mạnh của dân tộc để phát triển Đạo và xây dựng đất nước, dân tộc cũng dựa vào trí tuệ sáng suốt của học thuyết "tam giáo đồng nguyên" để vượt thoát. Như vậy, tất cả đều phục vụ cho một mục tiêu tối thượng là sự trường tồn của dân tộc. Nếu không, thì không thể lý giải được một xã hội ốm yếu, rệu rã, chia ly, nghèo đói vật vã thời Lê Long Đĩnh (hôn quân ngoạ triều), bỗng vụt lên thành một nhà nước cường thịnh thời Lý-Trần.

Ấy là nói về đại thể, chứ thực có thời gian đi kỹ vào thơ thiền Lý - Trần còn biết bao điều thú vị. Chẳng hạn đặc trưng của thơ thiền đời Lý là kết hợp rất nhuần nhuyễn "chất Phật" với "chất Lão-Trang". Vì thế giọng thơ nghe siêu thoát. Con người như sảng khoái hơn, tự tin hơn. Con người với thiên nhiên như là một chỉnh thể khó phân ly.

Song thơ thiền đời Trần, vẫn có điểm chung với thơ thiền đời Lý là lấy Phật làm trung tâm, tuy nhiên nó xa dần Lão Trang mà gần cận với Nho giáo hơn. Chính sự kết thân này ngày càng làm cho chất lung linh trong thơ giảm thiểu, chất thế tục ngày một gia tăng. Cũng bởi ảnh hưởng tính thực dụng của Nho chen vào. Sang cuối Trần, hậu Lê, và Nguyễn Nho thịnh hẳn, khiến Phật suy, và xã hội đi dần vào con đường phụ thuộc bởi các học thuyết chấp ngã của Nho gia.

Và một khi đã dựa vào tha lực, thì khó mà đưa đất nước vào quĩ đạo của sự phát triển. Mặc dù thi thoảng vẫn có những ông vua có tài như Lê Thánh Tông, Minh Mạng, song vẫn không cứu vãn được cả một thời đại đã đi vào "khu bản".

H.Q.H
(168/02-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!