Thơ Phan Huyền Thư - nằm nghiêng về cách tân

09:53 05/05/2009
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.

"Nằm nghiêng" được kiến trúc bằng một té tượng: "Giấc mơ của lưỡi", "Nhớ Bão", "Thất vọng tạm thời" và "Lãng mạn giải lao". Có vẻ Càn - Khôn - Ly - Khảm quanh âm - dương đường Thái cực đồng dạng chữ S của hệ La - Tinh. Cách tuyên ngôn cách tân bằng chính tác phẩm của mình quả là đàng hoàng hơn cách truyên ngôn khác của Thư đôi người đã có ý kiến trở lại. Với "Nằm nghiêng", Thư đã chủ động làm chữ chứ không để chữ làm. Mà đã chủ động thì phải tỉnh, dù cảm xúc đã xô đẩy mình tới chỗ mấp mé say. "Có lúc - chữ nghĩa - tôi cũng nhai rát trong miệng - cùng với nước miếng - rịt vào vết thương người làm tôi đau". Thư khước từ gieo vần để đẩy thơ hôm nay cách xa ca mà đã có một thời dài ta từng lầm lẫn, ca đã từng "đánh lận con đen" là thơ, và có lúc đã ngự trị, trừng trị thơ. Ở "Nằm nghiêng" Thư đã khắc hoạ họ "Vẽ chân dung chữ - những nhà thơ ảnh viện - váy áo phấn son vô hồn". Từ lựa chọn ấy, Thư đã dùng cách Thơ của mình chiêm nghiệm sự biến động của xã hội hôm nay. "Tôi đi trên đường phố đầy bụi, thành phố của tôi", "Di mộng", “Tự nguyện" là những nỗi niềm của Thư với đất nước, với người xa Việt xa xứ, với tình yêu. "Di mộng" thật nghẹn ngào: "Đồng bào của tôi - tha hương chữ S - dị bào đầu tư - tình kiến thiệt quê. Ba hồn bảy vía- đồng bào dị mộng - ở đâu thì về… Có lẽ vậy nên ở ba phần thơ đầu, cái "ba hồn bảy vía" đều bám vào cả bảy bài thơ của từng phần.

"Nhớ bão" là phần thơ mọng cảm xúc với những thi ảnh đẹp như "Trăng non trong nỗi thượng tuần", "Con dế thất tình vấp phải giọt sương" "Những con ve tâm thần cào xước mạt trưa", 'Gió liếm vào gáy đậm một mùi cỏ thơm" "Côn trùng rên Nhưng cảm xúc thì lại nhói đau bởi "Ngoại ô" bây giờ "có vẻ không thành thật hơn". Nhưng cảm xúc thì buồn:
Cơn bão cũ mùa đi không tan
Mùi hoàng lan và vết chuồn cắn lá
Rãnh nước cạn rúc rích khe cửa
Mảnh ván hoài niêm ướt gỉ đinh

Đọc "Nằm nghiêng" thấy Thư đã học được cách làm chữ của Trần Dần, Lê Đạt, cách làm thi ảnh của Hoàng cầm. Và làm theo cách mình ở thời "thơ anh lang thang internet". "Nằm nghiêng" rất đàn bà ở phần "thất vọng tạm thời". Có cảm giác ân ái khi đọc "Em thèm miết ngón tay - không vị mặn - của anh". Nhưng cũng đầy thất vọng khi thấy ân ái cũ rích và tầm phào:
Điệp khúc "Sáng mùa đông
Thoa kem vào chân gác lên bậu cửa
Thoa kem vào chân gác lên bồn rửa
Vào trong ra ngoài trơn tru"
Vào trong ra ngoài êm ru"

Lại thấy thương cảm những "Thị Màu đời mới" với những ý nghĩ, những hành động tình cảm nửa vời, toan tính: "Yêu không được đánh mất mình - chỉ ăn cắp người ta...". Ôi! làm gì lấy lại một thời "dâng hiến" một thời "Tự nguyện trao nhau những miếng thật ngon".
"Van nài" là một lời ân ái dược nói bằng tay:
Cũ và thừa
tay em
lúc quấn quýt thành giường
lúc mỏi mòn ngậm miệng
anh biết không
em vẫn chia tay

"Lãng mạn giải lao" là phần thơ mang một nhân tình thế thái mà ở đó những người tử tế thấy mình độc hành trong nỗi cô đơn của ý nghĩ. "Giao thừa - thừa tôi - nằm vạ tháng giêng". Thư đã lộ diện buồn, không giấu mình nữa. Thư đã bộc bạch: "Viết - buồn thành mưa... Viết - buồn thành gió... Viết - nỗi buồn của tôi thành tình yêu của anh... Viết - nỗi sống buồn của tôi..." Rồi  những "đóng cứng nỗi buồn", "buồn tập tễnh", "buồn rất trong". Vân! Nỗi buồn nào mà chẳng rất buồn, mà chẳng rất trong. Tại sao đời cứ phải vui mà không có quyền buồn. Thật tẻ nhạt và dị dạng.

Ở phần này, bài "Nằm nghiêng" dường như là một âm hình chủ đạo của giai điệu và nhịp điệu toàn bộ tập thơ. Thư đã thoát được lối tạo nhịp cũ. Những câu thơ như đối chọi nhịp ở những khổ đầu:
Nằm nghiêng ở trần thương kiếp nàng Bân
ngón tay rỉ máu. Nằm nghiêng

Rồi sau đó nhịp nhanh dần lên:
Nằm nghiêng lạnh
hơi lạnh cũ. Ngoài đường khô tiếng ngáy
Nằm nghiêng. Mùa đông
Nằm nghiêng trên thảm gió mùa. Nằm nghiêng.

Và bất ngờ hiện ra là một đất nước Việt Nam nằm nghiêng trên biển Đông đang ở trước một thách thức hoà nhập hay hoà tan:
Nằm nghiêng
xứ sở bốn mùa nhiệt đới, tự nhiên nhói đau
Sau lần áo lót có đậm mút dầy
Và quả quyết "ta về ta tắm ao ta".
Nằm nghiêng
Về đây

"Nằm nghiêng" về cách tân, Thư không phải không có lúc mỏi bởi đó là cách nằm nghiêng phía tay trái, phía quả tim chìm xuống. Tôi không thú những chữ "chết" trong thơ Thư. "Chết"mà không "chết". "Chết" mà chưa "chết". Đừng nghĩ "ngôn ngữ đang chết trên cánh đồng - gieo vần". Nó chỉ mãi "ngoắc ngoải" mà thôi. "Nụ cười tắt" có khi linh diệu hơn "nụ cười chết". (Giấc mơ của lưỡi). Chữ "chết" ở bài "Giấc mơ" cũng trong trình trạng ấy. Thay vì chữ "Chết" bằng chữ "qua đời" thì chữ "Giết" sau đó được đẩy lên cao hơn. "Giấc mơ" thì cần gì rõ quá. Cứ mù mờ là được.

Có những câu thơ để đạt độ an toàn cao, Thư đã "tỉnh" quá, dã không cho "say" lấn vào hồn thành ra hơi cố ý như:
Chị lao công người Hà Nội gốc
lặng lẽ quét đường
Hơi cầu kỳ như :
- Giấc em thành địa cỏ
bóng anh đè tim lệch tiết điệu mùa
- Hè bất đắc kỳ tử khi đang truy phong

"Lập Duy" có vẻ "làm chữ' nhưng do cảm xúc mạnh nên trở thành bài thơ long lanh tình mẫu tử :
Rút khỏi đầu tấm voan ảm đạm
Vắt nỗi buồn mẹ lên cành trăng non
Lập Duy
vỗ cánh...

Tôi tin ở lời hứa của Thư trên hành trình cách tân còn vô định phía trước:
Mẹ sẽ tập đi bằng ánh sáng Lập Duy
trong bóng tối câm lặng cuả lời
"Nằm nghiêng" chắc chắn sẽ mang đến cho thơ Việt Nam đầu thế kỷ mới nhiều tranh luận. Nhưng chính những tranh luận ấy là sự khẳng định gương mặt thơ trẻ  Phan Huyền Thư với cách tân cố đoạn tuyệt sự cũ kỹ. "Nằm nghiêng" từ "Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ".

N.T.K
(168/02-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.