Thơ đổi mới, một khởi đầu mới

16:10 28/08/2009
INRASARA1. Đó là thế hệ thơ có một định phận kì lạ. Người ta vội đặt cho nó cái tên: thế hệ gạch nối, thế hệ đệm. Và bao nhiêu hạn từ phái sinh nhợt nhạt khác.Đất nước mở cửa, đổi mới, khi văn nghệ được cởi trói, nhà thơ thế hệ mới làm gì để khởi sự cuộc viết? Cụ thể hơn, họ viết thế nào?

Nhà thơ Inrasara - Ảnh: thethaovanhoa.vn

Đổi mới, không thể viết như cũ, họ biết thế. Nhưng bắt đầu từ đâu? Họ chưa cơ hội nhận được thông tin đa chiều hay tiếp nhận nền thơ ca thế giới với bao nhiêu trào lưu như thứ cửa hàng bách hóa tổng hợp để tha hồ chọn lựa, như thế hệ thơ hậu đổi mới. Mở cửa, họ đối mặt với khoảng trắng mênh mông của sáng tạo, của ý thức và trách nhiệm của một nghệ sĩ tự do. Họ cần làm mới, nhận thức rằng mình phải khác. Phải gánh lấy trách nhiệm định phận thi sĩ của thế hệ, của thời đại.
Nhưng mới, khác thế nào?

2. “Giai đoạn này,
ở các tỉnh phía Bắc, các nhà thơ trong nhóm Nhân văn - Giai phẩm lần lượt xuất hiện trở lại, gây được không khí cởi mở trên thi đàn, qua đó tạo ảnh hưởng không nhỏ đến các sáng tác trẻ. Dương Tường - Lê Đạt ra mắt trong tập 36 bài tình (1989), Hoàng Hưng in Người đi tìm mặt (1993) sau Ngựa biển (1988) 5 năm, Bến lạ của Đặng Đình Hưng được xuất bản năm 1991, Lê Đạt sau Bóng chữ (1994) là Ngó lời (1997), Trần Dần xuất hiện qua Cổng tỉnh (1994),...

TP Hồ Chí Minh, tuyển tập thơ và tiểu luận Gieo & Mở (1995-1996) ra hai tập rồi ngưng. Sau đó, Thơ Tự do gồm mười tác giả khuynh hưng cách tân in chung (1999) tiếp bước, rồi Tuyển tập Văn chương, ra mắt số đầu tiên vào năm 1999. Tất cả như đang dọ dẫm tìm cách bứt phá, cả trong lối viết lẫn cách xuất hiện” (Xem thêm: Inrasara, “Thơ Việt, từ hiện đại đến hậu hiện đại, Tienve.org Inrasara.com, 2-2009).
Thế hệ thơ chống Mỹ, với những thành tựu trong giai đoạn đất nước chiến tranh, và cả mươi năm sau đó qua các sáng tác sử thi và âm hưởng sử thi phát triển mạnh mẽ, coi như đã kết toán phần việc một thời đại. Ít ra là với thơ ca, dù vài người của thế hệ đó vẫn còn viết, còn vắt mình đóng góp.

Ngoại trừ một vài người. Nguyễn Duy là một.
Mở cửa, Nguyễn Duy cho ra đời hàng loạt sáng tác đầy phản tỉnh. Trước anh, Chế Lan Viên với những “Ai? Tôi!”, những “Bánh vẽ”,... dằn vặt nhìn lại mình và thế hệ mình. Cái nhìn dằn vặt, chua xót, và nhiều ân hận của kẻ sắp vĩnh viễn rời cuộc chơi. Cuộc chơi ông hết cơ hội cữu vãn. Nguyễn Duy thì khác, anh đang ở tuổi đứng bóng mặt trời của sáng tạo. Nhìn - như con người nhập cuộc. Đây là nhà thơ ý thức phản tỉnh self consciousness sớm, sâu và lâu dài nhất, chắc chắc thế. Tự thức từ Đánh thức tiềm lực (1987):
ta ca hát quá nhiều về tiềm lực
tiềm lực còn ngủ yên...
cho đến Nhìn từ xa... Tổ quốc (NXB Trẻ TP Hồ Chí Minh, 1989):
Có một thời ta mê hát đồng ca
chân thành và say đắm
ta là ta mà ta cứ mê ta
...Vâng - một thời không thể nào phủ nhận
tất cả trôi xuôi - cấm lội ngược giòng

Cho đến tận năm 1992, khi anh cho in bài thơ dài Kim Mộc Thủy Hỏa Thổ trên Tạp chí Cửa Việt. Rồi tuyên bố nghỉ làm thơ! Bởi không còn có thể làm thơ, trong khí hậu thơ đầy giả tạo. “Ai” và dấu “?” liên tục được đặt ra suốt Nhìn từ xa... Tổ quốc. Về vô số câu hỏi đặt ra với lương tri thi sĩ trước các vấn đề xã hội. Quá khứ, hiện tại và tương lai. Và lạ là, “Không ai” trả lời. Không muốn trả lời, không thể trả lời và không dám trả lời. Trả lời sao được, khi ta đang nhất tề hành động thật thà giả và kỉ cương giả, linh thiêng và từ bi giả, cần cù và thông minh giả, bao dung và nhân tình giả,… Đặt bao “vấn đề” xã hội, nhà thơ buộc phải đặt vấn đề về chính công việc của mình: viết thơ.
ta chúi mũi hà hơi lên trang bản thảo
hô hấp nhân tạo những con chữ khó thở
...ta khao khát tiếng hát giun dế
không biên tập không kiểm duyệt
Nguyễn Duy qua ý thức phản tỉnh xã hội và suy tư về thơ, cũng đã
[vô tình] dự cuộc làm mới thơ Việt đương đại. Ta thấy Nguyễn Duy không ngán ngại ngôn từ thông tục, đời thường:
thần tượng giả xèo xèo phi hành mỡ
ợ lên thum thủm cả tim gan
Là một cách tiếp hơi cho thế hệ đổi mới và cả hậu đổi mới.

3. Nhưng như thế vẫn là chưa đủ. Thế hệ thơ đổi mới vẫn cứ là một thế hệ thơ hẫng! Họ bơi vô căn trong nỗ lực tìm đường, đối mặt với nỗi cô đơn cùng tận trước trang giấy trắng. Chấp nhận và chịu đựng. Một sức ép đè nặng lên họ; một nỗ lực và chịu đựng ghê gớm, gần như bất khả vượt. Trên bước đường, ngoảnh lại, có không ít nhà thơ tài năng bỏ cuộc. Có kẻ về hưu non, số còn lại chạy náu thân chốn báo chí hoặc cứ viết tới, như thể “thơ xuôi tay như nước chảy xuôi dòng”.

Nhưng giữa khí quyển văn chương đó, số ít đã đứng vững. Tiếp tục chiến đấu và sáng tạo. Trong cô độc, bất trắc. Cô độc, họ bị cắt đứt với khí quyển văn chương của một tập thể ít nhiều nhất quán trong ý hướng sáng tạo; cô độc, họ ít quen biết nhau để có thể lập nhóm, mở trường phái; cô độc, họ không được “đàn anh” chỉ bảo hay đưa tay dẫn dắt, như không ít nhà thơ thế hệ trước đó; cô độc, họ càng không nhận được những tài trợ tư nhân như vài khuôn mặt thế hệ sau này. Cùng lắm có vài ưu ái mơ hồ nào đó. Bất trắc, bởi thiếu “định hướng”, họ bước đi đầy rủi ro, sa sẩy. Đại biểu của nỗi rủi ro và sa sẩy đó là Mai Văn Phấn, có lẽ.

Các bài thơ “truyền thống”, những Giọt nắng (1992), Gọi xanh (1995),… với bao giải thưởng, liên tục từ năm 1991 đến 1995, dễ đẩy anh té ngồi lên chiếu văn đầy trang trọng. Nhưng không! Nhìn lùi lại, Mai Văn Phấn vỡ ra rằng có thiếu khuyết nào đó trong thơ anh. Chúng vẫn chưa nói được tiếng nói của hôm nay. Anh quyết rời bỏ chúng, lên đường tìm giọng điệu khác của anh, của chính thế hệ anh.
Đó là thái độ dũng cảm của kẻ sáng tạo, - một thế hệ sáng tạo. Dũng cảm, bao nhiêu tác phẩm thơ được cho ra đời, sau tháng ngày hoài thai và nung nấu. Với bao nhiêu tên tuổi: Dư Thị Hoàn, Nguyễn Quang Thiều, Dương Kiều Minh, Mai Văn Phấn, Trần Anh Thái, Trần Tiến Dũng, Đặng Huy Giang, Trần Quang Quý, Nguyễn Bình Phương.

4. Họ đều khá trẻ. Người nhiều tuổi nhất là Dư Thị Hoàn (1947), ít tuổi nhất: Nguyễn Bình Phương (1965), còn lại đa phần sinh vào khoảng 1955-1960. Họ xuất hiện trên thi đàn ngay thời đầu đổi mới. Tác phẩm đầu tay gây ấn tượng của họ ra mắt độc giả trong thời đoạn này.
Khởi đầu bằng Lối nhỏ của Dư Thị Hoàn in năm 1988, một năm sau Củi lửa của Dương Kiều Minh ra đời, tiếp theo là Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều (1992), rồi Trần Anh Thái cho in Độc thoại trắng hai năm sau đó (1994). Xuất hiện muộn nhất là Trần Tiến Dũng với Khối động (1997). Tất cả đều tạo dấu ấn, đều gây sự chú ý đáng kể, như vài hòn sỏi mới, khác lạ được ném vang vào hồ nước lăn tăn sóng.

Như thể vài dọ dẫm dè dặt bước ra khỏi cánh đồng thơ ca phong nhiêu nhưng phẳng lặng. Rồi đột ngột, khi thế kỉ XX sắp kết thúc và thiên niên kỉ mới bắt đầu, thế hệ đổi mới cho ra mắt hàng loạt tác phẩm quan trọng nhất của mình, cấp tập, tự tin và dũng mãnh.
Đó là thế hệ thơ thôi còn ám ảnh bởi quá khứ cuộc chiến thống nhất đất nước vừa qua. Quá khứ ấy trở lại, nếu có, là để được soi rọi qua một lăng kính khác, được nhìn theo các chiều hướng khác.
Trần Anh Thái, người trong cuộc, có cái nhìn vừa cận cảnh vừa toàn diện. Từ Đổ bóng xuống mặt trời (1999) sang Trên đường (2004) và mới nhất: Ngày đang mở sáng (2007).
Màn đêm lặng phắc bãi chiến trường
...Xác quân thù xác bạn gục vào nhau
                                                (Trần Anh Thái. Ngày đang mở sáng, 2007)

Khác, không phải là sự đánh đồng địch/ ta, kẻ thù/ đồng đội mà là điều gì cao vời hơn, thăm thẳm hơn: sự ưu tư về định mệnh dân tộc, khác đi - suy tư về nguồn cội. Về Quê hương, về cái Nhà - như là nơi cư trú của Tính thể con người trên mặt đất. Cảm nhận cuộc chiến theo chiều hướng đó, Trần Anh Thái từ chối kể chuyện theo trật tự thời gian, rù rì thứ lớp với chủ âm là các biến cố lịch sử trọng đại mà là những gì tưởng như vặt vãnh không đáng ghi vào sử sách được sàng lọc qua kí ức phong nhiêu, đời thường và rất con người về cuộc chiến. Chúng có mặt đầy tượng trưng, đánh động tâm thức người đọc, cho dù đấy là kẻ đã hay chưa từng dự phần vào nó, chịu đựng nó. Đây là trường ca đầy chất suy tưởng mang tính phản tỉnh của tác giả, khác nhiều so với không khí sử thi Việt, giai đoạn qua.

Đó là một cách đặt lại câu hỏi về quá khứ để khép lại quá khứ. Quá khứ như “người chị về núp bóng nâu sồng/ Rung lên những quả chuông hoàng hôn” (Mai Văn Phấn). Quả chuông hoàng hôn khép lại mãi mãi một giai đoạn lịch sử, mời gọi thế hệ hậu chiến - thế hệ đổi mới, đúng hơn - hướng đến chân trời mới, chinh phục các mục tiêu khác. Chiến tranh kết thúc, tâm thức tập thể của thời chiến tranh kết thúc đã đành; ngay ý thức tập thể của thời bao cấp, của hợp tác hóa nông nghiệp với bao sai lầm cũng phải được cởi bỏ sau lưng.
Chân tay ta vừa rút ra khỏi huyễn hoặc giấc mơ, ngón còn tê cứng một đời cuốc cày liềm hái, một đời bàn tay phải lệ thuộc vào tay trái. Cả hai bàn tay lệ thuộc vào nỗi ú ớ toát mồ hôi của cái chết lâm sàng, chỉ biết cứng đơ mặc cho cơn bóng đè trùm lợp. Giờ những bàn tay đã tự do thức dậy, biết cộng lực cho nhau khi bình minh đang đến tái sinh...
                         (Mai Văn Phấn, Người cùng thời, 1999)

5. Khép lại cách cửa quá khứ, công việc đầu tiên của họ là tái khám phá hiện thực, một hiện thực bị đánh mất trong chiến tranh hay trầm tích nơi những vùng đất lâu nay im ngủ. Chiến tranh, giá trị và ý nghĩa của đất được đo bằng sự được/ mất, sự hi sinh và lượng đổ đi của máu; sản xuất, đất là tấc đất tấc vàng, là đổ mồ môi sôi nước mắt. Khi bao trận vào sinh ra tử cho đất đã qua, mấy cày sâu cuốc bẫm tất bật đã lắng lại, đứa con của Đất nhìn và hiểu đất bằng/ qua tâm thức khác. Nhà thơ như là kẻ trầm tư đánh thức nó dậy. Sông Đáy trong khí mạch đất Hà Tây văn vật vang vọng suốt sáng tác của Nguyễn Quang Thiều là một. Anh khai quật và tìm thấy những báu vật bị bỏ quên hay còn ẩn giấu, ở các tầng sâu thẳm, sâu thẳm hơn nữa. Anh nhìn thấy những gì người khác không nhìn thấy hoặc, nhìn thấy khác người khác. “Những người đàn bà gánh nước sông”, những “con chó canh giữ nỗi buồn”,...

Khởi xướng từ xứ sở bóng tối đang lan tỏa, những tiếng không phải tiếng
Rồi những tiếng ngập ngừng, rồi thanh thoát, và dâng khắp, vang vang
Hiện lên những gương mặt bị chia sẻ và lắp ghép
Tóc tìm tóc, tai tìm tai, mắt tìm mắt, và máu tìm lại máu
Những ống họng bị cắt đứt lần tìm và tự hồi sức
Và chảy trong thức tỉnh lần mò, và chảy trong mê man lộng lẫy
                        (Nguyễn Quang Thiều, Nhịp điệu châu thổ mới, 1997)

Hiện thực xa có thể là những mảnh vụn của một nền văn minh đang ngủ vùi giấc ngàn thu như văn minh Champa, được Inrasara phục dựng và làm sống dậy. Sống dậy và hòa nhập dòng chảy chung của dân tộc, của nhân loại. Hiện thực cũng có thể là hiện thực gần của cuộc sống thành phố sôi động bề bộn hay bế tắc trước và sau mở cửa lộ diện trong các sáng tác của Trần Tiến Dũng. Một hiện thực nẩy sinh từ va chạm của các thế hệ, các quan niệm sống khác nhau, của các nền văn hóa khác nhau. Sự va chạm sinh ra hệ lụy có khi rất vi tế và cá biệt nhưng mang sức bung phá dữ dội, sẵn sàng làm sụp đổ một ý thức hệ. Lắm lúc nó mang tính khái quát lớn, có tác động rộng lớn trong cộng đồng. Nơi đó, sự tha hóa của con người là một. Nếu “Người đi tìm mặt” của Hoàng Hưng đẫm chất hiện sinh, thì đến Trần Quang Quý, “mặt” người đã khác, rất khác. Chúng biến chất và biến thiên đa dạng, trơn trợt khó nắm bắt. Chúng làm nhạt nhòe cá tính và nhạt nhẽo, vô vị hóa cuộc đời.

Những cái mặt di cư trong nhau
đến nỗi quên lối về
mặt thật!

Phải sắm nhiều vai kịch trong mỗi đời mặt
góc diễn tấu vỉa hè hay trang trọng sân khấu thời cuộc
một ánh chớp
một liu tiu cỏ biếc
mỗi mắt người một ngọn đèn soi

Những đau đáu buồn, khuôn mặt nặn nhào, khuôn mặt nhẵn quen
những cái mặt ẩn dụ xu nịnh
và thương thay những mặt mượn men
cả những mặt đã lạc màu chính khách

Tôi gặp đó đây nhan nhản vô cảm
có khuôn mặt một đời biểu diễn
có khuôn mặt đau nỗi đau không mặt
bóng thời gian làm xiếc phận người
                                    (Trần Quang Quý, Siêu thị mặt, 2006)

Một cuộc sống trong đó con người biểu diễn hay làm xiếc phận người với “vô cảm tiếng cười vô cảm ánh nhìn nhau” (Trần Anh Thái). Đó có thể là hệ quả của hậu chiến, con người lâu nay quen đồng bộ, đồng bộ ở cách nghĩ, cách viết và phần nào đó cách sống, nay khi đột ngột bị đẩy vào tình thế buộc nhìn lại mặt mình: ta thấy mình không giống ai. Đúng hơn - giống tất cả mọi người mà không nét nào là của mình. Muốn tìm lại mặt mình, cũng không biết tìm ở đâu. Chúng ta chưa chuẩn bị gì cả! “Cuộc sống của tôi là sống giữa tầng tầng thế giới mặt” (Trần Quang Quý).

(còn nữa)
I.R.S.R
(245/07-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.