Thi ca - giá trị và quá trình

14:26 18/11/2008
HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)

Việt Nam là đất nước của thi ca. Điều này được khẳng định từ thực tiễn của tiến trình hàng nghìn năm văn chương dân tộc trong tương quan với từng bối cảnh lịch sử - thi ca cụ thể. Cơ sở xã hội cùng với cơ sở triết mỹ và cơ sở thi pháp của từng thời kì, từng giai đoạn đã để lại những giá trị văn chương bất hủ, cắm từng cột mốc lớn qua những tên tuổi tài danh, với từng kiểu quan niệm nghệ thuật về con người cùng các phương thức, phương tiện văn hóa, ngôn từ thể hiện từng kiểu con người ấy một cách có quy luật.
Hiện tượng và thành tựu thơ là hiện tượng và hiện thực luôn vận động, phát triển trong tính đồng đại và lịch đại đã, đang và sẽ trôi qua cùng những khả năng làm đầy những nội dung và quan niệm mới của người tiếp nhận qua các thời kỳ, thời đại... Thi ca, vì vậy, luôn là một quá trình mở, từ chính cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm và tiến trình văn học thông qua người đọc.

Thơ ca khác với lịch sử chính là ở những giấc mơ mang bóng dáng của lịch sử được thăng hoa qua từng tâm trạng và cảm xúc điển hình của thi sĩ. Trong từng trục thời gian - không gian mà chủ thể sáng tạo hiện hữu và cảm xúc ấy đã hình thành nên động thái sáng tạo kì diệu, có vẻ như chỉ là mộng mơ và siêu nghiệm, có lúc tưởng thần bí, nghịch lý... nhưng nghiệm kỹ thì nó lại có nguồn gốc ở tính lịch sử và lấp lánh lời giải đáp có tính nhân sinh và mỹ học sáng tạo của nhà thơ. Nó trở thành công cụ nhận thức và tư duy của con người một cách đặc trưng và đặc thù nhất.
Đặc trưng và đặc thù, ở chỗ, nó dùng một số lượng hữu hạn của ngôn từ và cách tổ chức hình ảnh, câu chữ, các biện pháp tu từ “một cách quái đản” để buộc người tiếp nhận phải cảm xúc và suy nghĩ, tìm cách giải mã thông điệp hiệu quả nhất. Ở đây, ta muốn nói đến những bài thơ có cách tổ chức độc đáo, mới mẻ, khó có thể hiểu tức thời qua cái vỏ hình thức cảm tính của chúng. Vì vậy, hiệu cảm thơ có thể có sự mâu thuẫn, so le và rất khác nhau ở nhiều người cảm thụ. Chưa kể, có người, do không hiểu được tính đa nghĩa của thi ca mà biến thành cái nhìn theo tiêu chuẩn chính trị để phán xét chủ quan, phản thi ca. Ở đây, hóa ra, trong hình thức cao quí và chính đáng nhất của tâm lí học và mỹ học sáng tạo lại còn có chỗ cho sự ngộ nhận và áp đặt, chuyển nghĩa, chuyển hóa giá trị một cách lạ lùng ở một số người đơn giản và máy móc như thế.

Vậy, một câu hỏi đặt ra là làm cách nào để hiểu bản chất của giá trị thi ca và quá trình thi ca? Có cần phải xác lập một kí ức và thức nhận văn hoá có tính tập thể, cộng đồng, cộng hưởng làm nền tảng cho quá trình tiếp nhận và định hướng tri thức thi ca cho mọi người không? Theo tôi, có lẽ khó và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng cần phải như thế, dù lâu dài. Quá trình nhận diện và thẩm định thi ca chính là con đường nỗ lực tích hợp những hiểu biết có tính siêu ngôn ngữ, siêu văn bản, siêu văn hóa... mới mong làm giàu nhận thức, phù hợp với đặc trưng thể loại có tính “đỏng đảnh” nhưng kì diệu và cao sang này. Và cũng cần lưu ý những trường hợp cá thể, cá biệt, ngoại lệ mà tính phi qui luật của nó không có chỗ đứng trong chủng loài. Khi ấy, không có lời biện hộ nào, dù hay ho và ngụy biện tinh vi nhất, lại đủ sức làm xoay chuyển tình thế và có tính thuyết phục được công chúng, kể cả công chúng bình thường nhất.

 Tôi đã dài dòng về những điều đã cũ mà ai cũng biết là cốt để lạm bàn về tình hình thơ hiện nay trên các diễn đàn và báo chí cả nước, trong đó, có các tạp chí của 6 tỉnh Bắc miền Trung chúng ta. Trong công tác biên tập văn học, có lẽ, khó nhất là biên tập thơ. Tìm cho được bài thơ hay, mới lạ, độc đáo về thi pháp là công việc đãi cát tìm vàng và là niềm hạnh phúc cao sang nhất của người biên tập. Ở Tạp chí Sông Hương chúng tôi, hàng tháng, số lượng thơ gửi đến có thể lên đến hàng năm, sáu trăm bài, nhưng nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - biên tập thơ lâu năm và có kinh nghiệm của Sông Hương luôn phải than thở và âu lo cho tình trạng hiếm hoi thơ hay mà nhiều thơ bình thường và thơ dở. Chưa kể, chị phải khổ sở đọc những bài thơ mà chị nghi là đã đọc ở đâu rồi, giống thơ dịch, hoặc làm dáng một cách lộ liễu, đáng trách, thiếu cảm xúc chân thành mà lạm dụng câu chữ dễ dãi; vắng tứ mà dư thừa kể lể, điệu đàng vô nghĩa; chưa kể đến kiểu thơ sex, rên rỉ theo bản năng tính dục....

Dù vậy, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng thừa nhận, có khi gặp được không ít những bài thơ hay một cách ám ảnh và run rẩy. Chị xem đấy là của quý, là “thi ca chi bảo”. Những bài thơ như thế không thể nào bị lạc lõng và tuột khỏi tầm đón đợi của bạn đọc. Chế Lan Viên có nói một cách hình tượng và thú vị rằng: “Thơ dở không dịch được- Thơ hay như người đẹp, ở đâu đi đâu cũng lấy được chồng”. Tôi đã đọc thơ trên các Tạp chí Sông Hương, Cửa Việt, Nhật Lệ, Hồng Lĩnh, Sông Lam, Xứ Thanh và tôi cũng vui mừng nhận thấy rằng thơ hay luôn hiện diện trên các tạp chí, trong đó, các tác giả người miền Trung là chủ yếu. Thi pháp của họ đa dạng, biến ảo, giàu triết lí, hiện đại; cấu tứ già dặn, cảm xúc tươi non, nhân văn và thế sự... Sự tích hợp của các kiểu sáng tác và cách thể hiện đã làm cho thơ miền Trung hôm nay nói riêng đang khởi sắc và lung linh trí tuệ... Nếu có một người say mê như Hoài Thanh - Hoài Chân sẽ không khó khăn gì để thực hiện một công trình thơ tinh tuyển dày lên mấy nghìn trang và một công trình khảo luận đặc sắc về “một thời đại mới trong thi ca hiện đại” với những nhận định sâu sắc về từng tác giả, tác phẩm mà không hổ thẹn với tiền nhân, với bạn bè gần xa, với các nhà thơ miền Trung qua các thời kì, thời đại quá khứ. Vậy thơ trên các tạp chí Bắc miền Trung có những đặc điểm nổi trội nào? Trong khuôn khổ của một tham luận, tôi xin nêu một số nhận định sau, chủ yếu là thành tựu và ưu điểm (nếu có gì bất cập hoặc thái quá, mong được sự lượng thứ và bỏ qua từ các đồng nghiệp); đó là:

- Chất sống, chất hiện thực về đời tư - thế sự ồ ạt đi vào thơ một cách chân thành, nhức nhối, làm hiện lên bức tranh đời với nhiều đa đoan, hệ lụy nhưng giàu niềm tin yêu và khát vọng về những điều hằng cửu của thân phận và kiếp người. Những nỗi niềm vui buồn, ơn nghĩa luôn được đặt trong từng hoàn cảnh cụ thể qua sự đối sánh với từng cặp phạm trù tốt - xấu, cao cả - thấp hèn, tình yêu - tan vỡ, cái đang có - cái cần có, ánh sáng - bóng tối, tin yêu - ngờ vực... làm cho tiếng lòng và tiếng vọng thơ hôm nay đa dạng, đau đáu và nhân bản hơn nhiều.
- Nhưng điều đó, chưa phải là cái cần vươn đến của thơ. Điều tôi muốn nói là hồn thơ, sự kết tinh thơ từ những mảnh đời giàu suy tư và khát vọng. Có nghĩa là vốn sống, tình yêu, mơ ước của nhà thơ đã biến thành sự sống nội tâm toàn vẹn, có khả năng cá biệt hóa cao độ, khiến cho ngôn từ có sự va đập và phản âm đầy trách nhiệm từ nhiều chiều, nhiều hướng mà nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã chân thành tỏ lộ: “Thơ chưa hay thì thơ nói thật lòng - Ai giả dối rồi biết mình lầm lỗi - Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi - Câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi” và ở đâu đó, bên sau câu thơ vẫn vang lên điệp khúc “Nhưng tôi người cầm bút, than ôi! - Không thể không tin gì mà viết”, “Ở đâu đó, người vẫn yêu người lắm - Nước đục ư! Qua bể lọc trong ngần”. Có thể xem đó là từ trường làm thành chất thơ riêng trên tạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung.

-Cùng với thơ cả nước, thơ miền Trung hôm nay có độ lắng, độ suy tư, độ triết luận riêng. Dĩ nhiên là để thấy được điều này, chúng tôi cũng phải đắn đo chắt lọc và tìm cho ra mẫu số chung của thơ từ hiện thực tâm trạng của từng bài thơ cụ thể mà ở đó tên đất, tên làng, thiên nhiên, tạo vật mang tố chất miền Trung hiện lên da diết, tin yêu.
- Nếu nói thơ là ngày hội của lý trí “La poésie est une fête de l’intellect” thì thơ trên tạp chí 6 tỉnh Bắc miền Trung đã hội tụ và tỏa phát chất lý trí ấy một cách đa dạng được thanh lọc từ những ám ảnh tâm linh, trực giác; từ những ấn tượng còn lại của vô thức, tiềm thức; có khi là từ huyền thoại, cổ tích... làm thành mã văn hoá, kí ức văn hoá liên chủ thể rất đặc sắc của các nhà thơ miền Trung. Đó phải chăng là chất hiện đại của thơ? Hay có thể nói, đó là quá trình tạo sinh nghĩa của thơ từ ngôn từ giàu biến ảo ở từng nhà thơ, làm thành năng lượng thơ, tư duy thơ, triết lý thơ. (Tôi tin là các nhà thơ dễ dàng đồng cảm với nhận định của tôi - nhất là các anh chị đang làm công tác biên tập thơ của tạp chí 6 tỉnh Bắc miền Trung).

- Thơ thực chất là kinh nghiệm thơ và kinh nghiệm đời được hóa giải và truyền cảm từ chủ thể sáng tạo đến khách thể - người đọc mà người biên tập là chiếc cầu nối, là người đồng sáng tạo tài năng chỉ ra cái khoảnh khắc vĩnh cửu của từng bài thơ, từng nhà thơ. Tạp chí 6 tỉnh Bắc miền Trung đã không có lỗi với lịch sử thi ca và tiền nhân khi phát hiện, giới thiệu và dám chấp nhận những phong cách thơ lạ để đăng tải trên các tạp chí của mình qua các cuôc thi thơ.Nhiều tác giả trẻ đạt giải và hiện nay trở thành những nhà thơ có tên tuổi trong cả nước chính là được “con mắt thơ” của các biên tập viên và ban giám khảo các cuộc thi thơ các tạp chí chúng ta phát hiện. Riêng Tạp chí Sông Hương, qua các cuộc thi thơ, đã phát hịên và trao giải cho các tác giả trẻ như: Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lê Thiếu Nhơn và nhiều tên tuổi khác mà tôi chưa kịp ghi lại đầy đủ. Chưa kể các nhà thơ có mặt ở đây hôm nay như Nguyễn Ngọc Phú, Nguyễn Khắc Thạch, Nguyễn Thái Sơn, Lê Quốc Hán... cũng đều có nguồn cội từ các tạp chí 6 tỉnh Bắc miền Trung. Đến đây, tôi lại nhớ và liên tưởng đến Hoài Thanh - Hoài Chân và cuốn Thi nhân Việt Nam để làm điểm tựa và đường biên so sánh, thì có thể lạc quan nói rằng thơ miền Trung, nhà thơ miền Trung chúng ta hôm nay hùng hậu, đa dạng và chất lượng vô cùng, nhưng rất tiếc, ta chưa có một công trình nghiên cứu đầy đủ và khoa học về họ.Liệu trong cuộc họp mặt này, chúng ta có đề xuất được một ý hướng tính nào cho cuộc hội ngộ thơ trong một công trình sắp tới không? (Xin ý kiến của các anh chị).

Bài viết sơ lược nhưng quá dài của tôi cũng chỉ là những ý kiến rời rạc, tản mạn, mong các anh chị bỏ qua những thiếu sót,bất cập. Cuối cùng, tôi muốn bày tỏ niềm tin yêu của tôi đối với thi ca miền Trung rằng: Đích cuối cùng của thi ca là tình yêu và khát vọng được đối thoại, được hóa giải để không còn là nó, để nó đến với mọi người, thành năng lượng sống, từ đó, nghe được sự đồng vọng của bản thể thơ. Thơ miền Trung đã đang và sẽ là nhịp cầu liên chủ thể cao đẹp nhất, để trong khoảnh khắc cộng hưởng giữa con người với nhau, giữa con người và vũ trụ, giữa hư và thực, giữa nhớ và quên..., thơ vẫn đi bên cạnh cuộc đời, thơ vẫn vĩnh hằng trong từng cảm giác bé nhỏ của mỗi một chúng ta.
                 Vinh,Đêm 27-11- 2005
H.T.H

(nguồn: TCSH số 203-204 – 01&02 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.