Thi ca - giá trị và quá trình

14:26 18/11/2008
HỒ THẾ HÀ(Tham luận đọc tại Hội thảo Tạp chí văn nghệ 6 tỉnh Bắc miền Trung)

Việt Nam là đất nước của thi ca. Điều này được khẳng định từ thực tiễn của tiến trình hàng nghìn năm văn chương dân tộc trong tương quan với từng bối cảnh lịch sử - thi ca cụ thể. Cơ sở xã hội cùng với cơ sở triết mỹ và cơ sở thi pháp của từng thời kì, từng giai đoạn đã để lại những giá trị văn chương bất hủ, cắm từng cột mốc lớn qua những tên tuổi tài danh, với từng kiểu quan niệm nghệ thuật về con người cùng các phương thức, phương tiện văn hóa, ngôn từ thể hiện từng kiểu con người ấy một cách có quy luật.
Hiện tượng và thành tựu thơ là hiện tượng và hiện thực luôn vận động, phát triển trong tính đồng đại và lịch đại đã, đang và sẽ trôi qua cùng những khả năng làm đầy những nội dung và quan niệm mới của người tiếp nhận qua các thời kỳ, thời đại... Thi ca, vì vậy, luôn là một quá trình mở, từ chính cấu trúc chỉnh thể của tác phẩm và tiến trình văn học thông qua người đọc.

Thơ ca khác với lịch sử chính là ở những giấc mơ mang bóng dáng của lịch sử được thăng hoa qua từng tâm trạng và cảm xúc điển hình của thi sĩ. Trong từng trục thời gian - không gian mà chủ thể sáng tạo hiện hữu và cảm xúc ấy đã hình thành nên động thái sáng tạo kì diệu, có vẻ như chỉ là mộng mơ và siêu nghiệm, có lúc tưởng thần bí, nghịch lý... nhưng nghiệm kỹ thì nó lại có nguồn gốc ở tính lịch sử và lấp lánh lời giải đáp có tính nhân sinh và mỹ học sáng tạo của nhà thơ. Nó trở thành công cụ nhận thức và tư duy của con người một cách đặc trưng và đặc thù nhất.
Đặc trưng và đặc thù, ở chỗ, nó dùng một số lượng hữu hạn của ngôn từ và cách tổ chức hình ảnh, câu chữ, các biện pháp tu từ “một cách quái đản” để buộc người tiếp nhận phải cảm xúc và suy nghĩ, tìm cách giải mã thông điệp hiệu quả nhất. Ở đây, ta muốn nói đến những bài thơ có cách tổ chức độc đáo, mới mẻ, khó có thể hiểu tức thời qua cái vỏ hình thức cảm tính của chúng. Vì vậy, hiệu cảm thơ có thể có sự mâu thuẫn, so le và rất khác nhau ở nhiều người cảm thụ. Chưa kể, có người, do không hiểu được tính đa nghĩa của thi ca mà biến thành cái nhìn theo tiêu chuẩn chính trị để phán xét chủ quan, phản thi ca. Ở đây, hóa ra, trong hình thức cao quí và chính đáng nhất của tâm lí học và mỹ học sáng tạo lại còn có chỗ cho sự ngộ nhận và áp đặt, chuyển nghĩa, chuyển hóa giá trị một cách lạ lùng ở một số người đơn giản và máy móc như thế.

Vậy, một câu hỏi đặt ra là làm cách nào để hiểu bản chất của giá trị thi ca và quá trình thi ca? Có cần phải xác lập một kí ức và thức nhận văn hoá có tính tập thể, cộng đồng, cộng hưởng làm nền tảng cho quá trình tiếp nhận và định hướng tri thức thi ca cho mọi người không? Theo tôi, có lẽ khó và phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng cần phải như thế, dù lâu dài. Quá trình nhận diện và thẩm định thi ca chính là con đường nỗ lực tích hợp những hiểu biết có tính siêu ngôn ngữ, siêu văn bản, siêu văn hóa... mới mong làm giàu nhận thức, phù hợp với đặc trưng thể loại có tính “đỏng đảnh” nhưng kì diệu và cao sang này. Và cũng cần lưu ý những trường hợp cá thể, cá biệt, ngoại lệ mà tính phi qui luật của nó không có chỗ đứng trong chủng loài. Khi ấy, không có lời biện hộ nào, dù hay ho và ngụy biện tinh vi nhất, lại đủ sức làm xoay chuyển tình thế và có tính thuyết phục được công chúng, kể cả công chúng bình thường nhất.

 Tôi đã dài dòng về những điều đã cũ mà ai cũng biết là cốt để lạm bàn về tình hình thơ hiện nay trên các diễn đàn và báo chí cả nước, trong đó, có các tạp chí của 6 tỉnh Bắc miền Trung chúng ta. Trong công tác biên tập văn học, có lẽ, khó nhất là biên tập thơ. Tìm cho được bài thơ hay, mới lạ, độc đáo về thi pháp là công việc đãi cát tìm vàng và là niềm hạnh phúc cao sang nhất của người biên tập. Ở Tạp chí Sông Hương chúng tôi, hàng tháng, số lượng thơ gửi đến có thể lên đến hàng năm, sáu trăm bài, nhưng nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - biên tập thơ lâu năm và có kinh nghiệm của Sông Hương luôn phải than thở và âu lo cho tình trạng hiếm hoi thơ hay mà nhiều thơ bình thường và thơ dở. Chưa kể, chị phải khổ sở đọc những bài thơ mà chị nghi là đã đọc ở đâu rồi, giống thơ dịch, hoặc làm dáng một cách lộ liễu, đáng trách, thiếu cảm xúc chân thành mà lạm dụng câu chữ dễ dãi; vắng tứ mà dư thừa kể lể, điệu đàng vô nghĩa; chưa kể đến kiểu thơ sex, rên rỉ theo bản năng tính dục....

Dù vậy, Lâm Thị Mỹ Dạ cũng thừa nhận, có khi gặp được không ít những bài thơ hay một cách ám ảnh và run rẩy. Chị xem đấy là của quý, là “thi ca chi bảo”. Những bài thơ như thế không thể nào bị lạc lõng và tuột khỏi tầm đón đợi của bạn đọc. Chế Lan Viên có nói một cách hình tượng và thú vị rằng: “Thơ dở không dịch được- Thơ hay như người đẹp, ở đâu đi đâu cũng lấy được chồng”. Tôi đã đọc thơ trên các Tạp chí Sông Hương, Cửa Việt, Nhật Lệ, Hồng Lĩnh, Sông Lam, Xứ Thanh và tôi cũng vui mừng nhận thấy rằng thơ hay luôn hiện diện trên các tạp chí, trong đó, các tác giả người miền Trung là chủ yếu. Thi pháp của họ đa dạng, biến ảo, giàu triết lí, hiện đại; cấu tứ già dặn, cảm xúc tươi non, nhân văn và thế sự... Sự tích hợp của các kiểu sáng tác và cách thể hiện đã làm cho thơ miền Trung hôm nay nói riêng đang khởi sắc và lung linh trí tuệ... Nếu có một người say mê như Hoài Thanh - Hoài Chân sẽ không khó khăn gì để thực hiện một công trình thơ tinh tuyển dày lên mấy nghìn trang và một công trình khảo luận đặc sắc về “một thời đại mới trong thi ca hiện đại” với những nhận định sâu sắc về từng tác giả, tác phẩm mà không hổ thẹn với tiền nhân, với bạn bè gần xa, với các nhà thơ miền Trung qua các thời kì, thời đại quá khứ. Vậy thơ trên các tạp chí Bắc miền Trung có những đặc điểm nổi trội nào? Trong khuôn khổ của một tham luận, tôi xin nêu một số nhận định sau, chủ yếu là thành tựu và ưu điểm (nếu có gì bất cập hoặc thái quá, mong được sự lượng thứ và bỏ qua từ các đồng nghiệp); đó là:

- Chất sống, chất hiện thực về đời tư - thế sự ồ ạt đi vào thơ một cách chân thành, nhức nhối, làm hiện lên bức tranh đời với nhiều đa đoan, hệ lụy nhưng giàu niềm tin yêu và khát vọng về những điều hằng cửu của thân phận và kiếp người. Những nỗi niềm vui buồn, ơn nghĩa luôn được đặt trong từng hoàn cảnh cụ thể qua sự đối sánh với từng cặp phạm trù tốt - xấu, cao cả - thấp hèn, tình yêu - tan vỡ, cái đang có - cái cần có, ánh sáng - bóng tối, tin yêu - ngờ vực... làm cho tiếng lòng và tiếng vọng thơ hôm nay đa dạng, đau đáu và nhân bản hơn nhiều.
- Nhưng điều đó, chưa phải là cái cần vươn đến của thơ. Điều tôi muốn nói là hồn thơ, sự kết tinh thơ từ những mảnh đời giàu suy tư và khát vọng. Có nghĩa là vốn sống, tình yêu, mơ ước của nhà thơ đã biến thành sự sống nội tâm toàn vẹn, có khả năng cá biệt hóa cao độ, khiến cho ngôn từ có sự va đập và phản âm đầy trách nhiệm từ nhiều chiều, nhiều hướng mà nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo đã chân thành tỏ lộ: “Thơ chưa hay thì thơ nói thật lòng - Ai giả dối rồi biết mình lầm lỗi - Thời tôi sống có bao nhiêu câu hỏi - Câu trả lời thật chẳng dễ dàng chi” và ở đâu đó, bên sau câu thơ vẫn vang lên điệp khúc “Nhưng tôi người cầm bút, than ôi! - Không thể không tin gì mà viết”, “Ở đâu đó, người vẫn yêu người lắm - Nước đục ư! Qua bể lọc trong ngần”. Có thể xem đó là từ trường làm thành chất thơ riêng trên tạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung.

-Cùng với thơ cả nước, thơ miền Trung hôm nay có độ lắng, độ suy tư, độ triết luận riêng. Dĩ nhiên là để thấy được điều này, chúng tôi cũng phải đắn đo chắt lọc và tìm cho ra mẫu số chung của thơ từ hiện thực tâm trạng của từng bài thơ cụ thể mà ở đó tên đất, tên làng, thiên nhiên, tạo vật mang tố chất miền Trung hiện lên da diết, tin yêu.
- Nếu nói thơ là ngày hội của lý trí “La poésie est une fête de l’intellect” thì thơ trên tạp chí 6 tỉnh Bắc miền Trung đã hội tụ và tỏa phát chất lý trí ấy một cách đa dạng được thanh lọc từ những ám ảnh tâm linh, trực giác; từ những ấn tượng còn lại của vô thức, tiềm thức; có khi là từ huyền thoại, cổ tích... làm thành mã văn hoá, kí ức văn hoá liên chủ thể rất đặc sắc của các nhà thơ miền Trung. Đó phải chăng là chất hiện đại của thơ? Hay có thể nói, đó là quá trình tạo sinh nghĩa của thơ từ ngôn từ giàu biến ảo ở từng nhà thơ, làm thành năng lượng thơ, tư duy thơ, triết lý thơ. (Tôi tin là các nhà thơ dễ dàng đồng cảm với nhận định của tôi - nhất là các anh chị đang làm công tác biên tập thơ của tạp chí 6 tỉnh Bắc miền Trung).

- Thơ thực chất là kinh nghiệm thơ và kinh nghiệm đời được hóa giải và truyền cảm từ chủ thể sáng tạo đến khách thể - người đọc mà người biên tập là chiếc cầu nối, là người đồng sáng tạo tài năng chỉ ra cái khoảnh khắc vĩnh cửu của từng bài thơ, từng nhà thơ. Tạp chí 6 tỉnh Bắc miền Trung đã không có lỗi với lịch sử thi ca và tiền nhân khi phát hiện, giới thiệu và dám chấp nhận những phong cách thơ lạ để đăng tải trên các tạp chí của mình qua các cuôc thi thơ.Nhiều tác giả trẻ đạt giải và hiện nay trở thành những nhà thơ có tên tuổi trong cả nước chính là được “con mắt thơ” của các biên tập viên và ban giám khảo các cuộc thi thơ các tạp chí chúng ta phát hiện. Riêng Tạp chí Sông Hương, qua các cuộc thi thơ, đã phát hịên và trao giải cho các tác giả trẻ như: Phan Huyền Thư, Vi Thùy Linh, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lê Thiếu Nhơn và nhiều tên tuổi khác mà tôi chưa kịp ghi lại đầy đủ. Chưa kể các nhà thơ có mặt ở đây hôm nay như Nguyễn Ngọc Phú, Nguyễn Khắc Thạch, Nguyễn Thái Sơn, Lê Quốc Hán... cũng đều có nguồn cội từ các tạp chí 6 tỉnh Bắc miền Trung. Đến đây, tôi lại nhớ và liên tưởng đến Hoài Thanh - Hoài Chân và cuốn Thi nhân Việt Nam để làm điểm tựa và đường biên so sánh, thì có thể lạc quan nói rằng thơ miền Trung, nhà thơ miền Trung chúng ta hôm nay hùng hậu, đa dạng và chất lượng vô cùng, nhưng rất tiếc, ta chưa có một công trình nghiên cứu đầy đủ và khoa học về họ.Liệu trong cuộc họp mặt này, chúng ta có đề xuất được một ý hướng tính nào cho cuộc hội ngộ thơ trong một công trình sắp tới không? (Xin ý kiến của các anh chị).

Bài viết sơ lược nhưng quá dài của tôi cũng chỉ là những ý kiến rời rạc, tản mạn, mong các anh chị bỏ qua những thiếu sót,bất cập. Cuối cùng, tôi muốn bày tỏ niềm tin yêu của tôi đối với thi ca miền Trung rằng: Đích cuối cùng của thi ca là tình yêu và khát vọng được đối thoại, được hóa giải để không còn là nó, để nó đến với mọi người, thành năng lượng sống, từ đó, nghe được sự đồng vọng của bản thể thơ. Thơ miền Trung đã đang và sẽ là nhịp cầu liên chủ thể cao đẹp nhất, để trong khoảnh khắc cộng hưởng giữa con người với nhau, giữa con người và vũ trụ, giữa hư và thực, giữa nhớ và quên..., thơ vẫn đi bên cạnh cuộc đời, thơ vẫn vĩnh hằng trong từng cảm giác bé nhỏ của mỗi một chúng ta.
                 Vinh,Đêm 27-11- 2005
H.T.H

(nguồn: TCSH số 203-204 – 01&02 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.