Thì... Là...

16:04 16/11/2009
LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

Nhà thơ Lê Đạt - Ảnh: vietnamnet.vn

Ai cũng biết thời gian không thể đảo ngược trong thế giới của con người. Có nghĩa rằng mọi sự tất yếu đều già nua, cũ kỹ.

Hay nói một cách khác có vẻ khoa học hơn, thời gian gắn liền với ăngtropi, với cái chết.

Sống là chống lại quá trình lão hóa, quá trình lỗi thời, sống là chống lại ăngtropi, sống là đổi mới.

Theo lý thuyết: lượng thông tin hao mòn với tần số xuất hiện. Một thông tin lần đầu phát ra hiển nhiên hàm lượng giầu hơn cùng thông tin trước phát lần thứ hai, thứ ba v.v... Và nếu không được bồi trúc, tu sửa, phát triển, thông tin trên lặp đi lặp lại có nguy cơ trở thành một "tiếng động". "Tiếng động" là xác của một thông tin chết.

Ngôn ngữ cũng không thoát khỏi quy luật khắc nghiệt này. Có điều ngôn ngữ lão hóa chậm hơn. Và cũng khó thấy hơn.

Một nền thơ lành mạnh sống động không thể không luôn luôn đổi mới. Đổi mới là lội ngược dòng suy thoái. Đổi mới là tạo ra ăngtropi âm nó chính là sinh tố cải lão hoàn đồng của trí tuệ.

Đã có một thời người ta nghĩ rằng muốn đổi mới phải "quét sạch quá khứ".

Đó là thời của chủ nghĩa giáo điều.

Cơ sở chủ nghĩa giáo điều là phương pháp loại trừ.

Phương pháp này đã chế ngự và làm hại tư duy loài người trong suốt chiều dài của lịch sử.

Trong những năm cuối thế kỷ XX chuẩn bị hành trang bước vào thế kỷ mới hình như thế giới tư duy đã trưởng thành khá nhiều.

Nhân loại đã bước đầu nhìn rõ tính chất độc đoán và bạo lực của nguyên lý loại trừ và định đề khuếch đại nguy hiểm của nó:

"Kẻ nào không đi với ta là chống lại ta"

Càng ngày càng có nhiều bậc trí giả hết lòng ủng hộ nguyên lý bổ sung.

Vào vế đôi "cái đúng", "cái sai" của lôgíc truyền thống đã xuất hiện một vế thứ ba "cái khác".

Ánh sáng vừa là hạt vừa là sóng. Vậy thì ánh sáng dứt khoát là hạt hay là sóng. Vật lý lượng tử đã trả lời dứt khoát rằng không thể trả lời dứt khoát được.

Sóng và hạt không loại trừ nhau và cùng song song tồn tại.

Đó là nền tảng của nguyên lý bổ sung cũng như hệ quả của nó, phương châm chung sống hòa bình và thế giới đa cực.

Thơ hiện đại (hiểu theo nghĩa rộng) cũng vậy. Thơ không sống bằng phủ định loại trừ mà bằng khẳng định bổ sung.

Không phải chỉ có một cách hiện đại mà có nhiều cách hiện đại. Không có một tổng công ty độc quyền phát hành tín phiếu hiện đại.

Thơ hiện đại không phải một trường phái khép kín. Mà một trường phái mở.

Nó được xây dựng trên một nhu cầu đối thoại triệt để. Một tinh thần bao dung "vô ngạn". Và một tình bạn hào hiệp của những người đồng hành nghĩa.

Thế kỷ XXI phải cố gắng sửa đổi câu tục ngữ Pháp lâu đời "Ganh ghét nhau như các nghệ sĩ".

Đã có một thời người ta nói quá nhiều đến vấn đề văn nghệ phản ánh hiện thực cũng như hình tượng của Stendhal: tác phẩm như mảnh gương di chuyển dọc lộ trình cuộc sống... Vì vội vàng người ta đã vô tình quên mất một điều quan trọng: đó là một mảnh gương biến dạng.

Bàn cho hết nhẽ không gì không xuất phát từ hiện thực. Và cái tháp ngà nổi tiếng một thời xét đến cùng cũng chỉ là hình tượng của một hiện thực thoát ly.

Nhưng hiện thực là gì?

Các nhà khoa học cũng như triết học đều nhất trí Không ai biết được hiện thực rốt ráo diện mạo ra sao. Hiện thực là một tập hợp những khả thể. Người ta chỉ có khả năng tiếp cận chứ không vĩnh viễn nắm bắt được chúng. Trường phái trừu tượng và hiện thực không khác nhau ở gốc xuất phát mà khác nhau ở cách nhìn. Chẳng có gì xuất phát từ hư vô cả.

Trong các sách về thơ Đường hình như người ta thường nhấn mạnh quá mức đến tiếng chuông của chùa Hàn Sơn.

Giai thoại đại để như sau:

Nhà thơ Đường Trương Kế đêm đỗ thuyền trên bến Phong Kiều đã xuống bút được hai câu thơ thật hay :

            Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
            Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
            (Trăng lặn, quạ kêu, sương đầy trời
            Cây sông, lửa chài, đối giấc ngủ buồn bã).

Hai câu thơ tuôn liền mạch như thánh cho ăn lộc. Rồi tắc. tắc tị. Trương Kế đứng lên, ngồi xuống mãi vẫn không nhích được bút. Mà không viết tiếp được thì hai câu thơ trời cho kia coi như vứt đi. Cái bí của nhà thơ thật khó chịu. Nó còn khổ sở hơn cảnh một anh chàng mắc bệnh táo bón kinh niên trong một nhà vệ sinh công cộng buổi sớm đông thượng đế.

Bỗng tiếng chuông chùa Hàn Sơn nổi lên. Nhà thơ ơrêka hạ liền hai câu tuyệt bút.

            Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn tự
            Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền

            (Chùa Hàn Sơn ngoài thành Cô Tô. Nửa đêm tiếng chuông vẳng đến thuyền khách)

Hú vía! Và sau đó Trương Kế chỉ còn việc thủng thỉnh đi vào bất tử.

Người ta đua nhau kể công tiếng chuông kia. Hỡi ôi! đêm nào chùa Hàn Sơn chẳng thỉnh chuông. Tiếng chuông ấy có ai "thấy" đâu.

Người ta chỉ thấy nó từ khi có bài thơ của Trương. Vậy phải coi Trương Kế là đồng tác giả của tiếng chuông. Các nhà tri thức học nói đến liên khách thể - chủ thể. Cái lớn lao của nhà nghệ sĩ nhà triết học, khoa học là đưa ra được một cái nhìn mới một nghĩa mới soi rọi những vùng mù của cõi biết, mở mang biên cương của hiện thực làm cho hiện thực ngày thêm phong phú hơn sinh sôi nẩy nở to đẹp hơn, đàng hoàng hơn.

Ông T. U. Q thợ trời
            dăm ba chi tiết sửa đổi
                        ngày Chúa nhật
.

Những năm 50 của thế kỷ, tại Pháp người ta làm quá rùm beng chung quanh phong trào tiểu thuyết mới. Dàn nhạc đệm "mê ly" này đã khiến không ít những nhà văn có tài năng mất đi sự tỉnh táo cần thiết cho một công cuộc cách tân văn học chiều sâu. Thật đáng tiếc.

Nhưng tôi không tán thành thái độ phủ nhận gay gắt của nhà văn hậu hiện đại người Áo Peter Handke đánh giá trường phái này như một "vụ sẩy thai". Đóng góp của cái nhà tiểu thuyết mới là không thể phủ nhận được. Giá họ tỉnh táo hơn. Giá họ đừng quá đinh ninh với sứ mệnh truyền bá một nền văn học lý thuyết kết hợp những cách tân sáng tạo với khoa học viết. Thái độ quá đinh ninh ấy vô tình đã biến họ thành những cha cố của một tôn giáo chữ nó có mùi cuồng tín Trung cổ.

Với sự phát triển của khoa học thông tin những năm cuối thế kỷ bước đi với một vận tốc chóng mặt.

Chủ nghĩa hiện đại (tôi rất không thích từ chủ nghĩa) hôm nào còn khiến mọi người ô a ngỡ ngàng đã mau chóng trở thành quá đát. Người ta bắt đầu nói nhiều đến chủ nghĩa (?) hậu hiện đại. Các nhà lý thuyết đặc biệt là các nhà lý luận Mỹ đã tốn khá nhiều giấy mực để nói về cái chủ nghĩa này, và không ít vị đã vô tình hay cố ý làm nó rắc rối thêm khó hiểu thêm.

Tôi ưa định nghĩa của Umberto Eco vì độ giản dị sâu sắc của nó. Umberto là một nhà tín hiệu học (sémiologue) cự phách người Ý. Ông còn là một nhà tiểu thuyết hậu hiện đại có tầm cỡ. Những tác phẩm của ông như "Tên hoa hồng" "Chiếc đồng hồ của Foucault" vừa mang nhiều tính thể nghiệm vừa "best seller"; đó là một thành tích hiếm nhà văn đạt được.

Ông có một định nghĩa "hơi bị hay" về phong cách hậu hiện đại: "Tiếp theo nền văn học hiện đại tiền phong bị cầm tù trong ngõ cụt của trang giấy trắng là một nền văn học hậu hiện đại, đặc tính chủ yếu của nó là sự châm biếm (ironie). Có nghĩa là anh có thể viết thoải mái kể cả trở lại phép sử dụng tình tiết của tiểu thuyết cổ điển nhất với điều kiện giữ một khoảng cách châm biếm.(L.Đ gạch dưới)

Tôi chưa được đọc thơ Gilbert Keith Chesterton. Và không ít cuốn tự điển nổi tiếng chỉ nhắc đến ông như một nhà văn, nhà luận chiến sắc sảo người Anh.

Nhưng tôi vẫn tin ông là một nhà thơ độc đáo, không phải chỉ vì những nhận xét hết sức khen ngợi của một người thính mũi và khó tính như Borges mà chủ yếu vì một số đoản ngôn tức cười của ông.

            "Tuân thủ một kẻ yếu là kỷ luật
            Tuân thủ một kẻ mạnh là qụy  lụy"

"Bị bắt buộc và cưỡng bức bệnh viện có thể trả lại một bệnh nhân thiếu đi một chân chứ không thể trả lại thừa một chân (trong một đà say sưa sáng tạo)".

"Một người có thể tuyên bố: Tôi đã chán thân phận một tín đồ thanh giáo, tôi muốn trở thành một kẻ ngoại giáo. Không ai có thể nói "Tôi chán đau đầu, tôi muốn đau răng!!!"

Cioran ca ngợi sự bông đùa như một nghệ thuật khó khăn và cách thức duy nhất để đạt tới cái nghiêm túc.

"Đi rất xa vào sự bông đùa tức là thôi không còn bông đùa".

Bậc trí giả hiểu rằng nghiêm túc thường khi chỉ là cái vỏ bọc của tình trạng nghèo nàn về tưởng tượng, nhát sợ trước sự đa nghĩa của đời sống và một trò diễn để lẩn tránh cái thật sự nghiêm túc.

Kafka ao ước "viết về bất hạnh bằng những từ của hạnh phúc".

Liệu ta có nên viết về nghiêm túc bằng những từ của bông đùa.

Ai dám bảo những câu dưới đây là nghiêm túc:

            "Cho ta nghe tiếng vỗ một bàn tay"
            "Hãy đi bộ trong khi cưỡi lừa"
            "Gẩy một cây đàn không giây"

Những công án tưởng chừng thiếu nghiêm túc này đã soi đường cho không ít bậc đại trí..

Bình luận về tác phẩm của nhà danh họa thiền Sengai, Suzuki viết

"Một sự việc trở thành hài hước khi vượt ra ngoài khung giới hạn nhỏ bé của nó và được đặt trong một khung cảnh khác rộng lớn hơn".

Herman Hesse nhà văn Đức được giải Nôbel từng nghiền ngẫm thiền trong nhiều năm nhỏ nhẹ:

"Cái nghiêm túc là một sự hiểu lầm xuất phát từ thời gian. Nó là kết quả việc phóng đại giá trị của thời gian. Trong vĩnh cửu thời gian không tồn tại. Vĩnh cửu là một khoảnh khắc dài vừa đủ một câu nói đùa".

Có lẽ các nhà văn, nhà thơ hậu hiện đại gần gũi thiền vì "Thiền là tôn giáo duy nhất dám bông phèng về bản thân mình.

Các tôn giáo khác hình như đều nghiêm túc quá. Borges kể lại rằng ông có một người bạn họa sĩ tuyệt vời đã tạo lập được mười hai tôn giáo để mọi người có thể đổi món tôn giáo mỗi tháng một lần và những kẻ sinh vào tháng giêng không cùng một tôn giáo với những kẻ sinh vào tháng chạp.

Lẽ dĩ nhiên Borges như những bậc trí giả từng trải văn hóa thường hay bông đùa.

Trí tuệ con người không có những định nghĩa không phát triển được. Nhưng mặt khác định nghĩa cũng có khả năng trói buộc trí tuệ khi trở thành những dây xiềng định kiến. Một định nghĩa như một bến đò. Một dòng sông trên đường ra biển lớn không thể nấn ná dừng lại một bến đò mặc dầu tất cả "những cây đa bến cũ" "những trăng thề". Chúng ta cần có nhiều định nghĩa mở.

Tôi muốn kể lại đây một truyện dân gian Việt Nam.

Truyện cây Thì là, một loại gia vị phổ biến đối với các món "hải quả".

... Ngày hôm ấy là ngày Thượng Đế dành cho việc đặt tên muôn loài. Cả vũ trụ mới hình thành và vô danh lũ lượt kéo đến trụ sở.

Vì Thượng Đế quá thông tuệ nên vẻn vẹn có một ngày mà hầu hết muôn loài đều được đặt tên.

Mãi đến lúc gần hết giờ, một loại cây bé nhỏ, xanh xao lách mãi mới tới được bệ rồng.

Nếu nó không tận mắt chứng kiến thái độ hết sức dân chủ của Thượng Đế vì muôn loài phục vụ thì nó đã quay về. Nó sợ. Khổ, nó phải thở mãi mới cất được tiếng nói.

Thượng Đế hơi bất ngờ. Ông phán truyền:

- Ngươi thì là...

Lần đầu tiên Thượng Đế hơi khó nghĩ trước loài cây hèn mọn quá, vô nghĩa quá. Ông lặp lại:

- Ngươi thì là...

Đúng lúc ấy Thiên lôi đánh trống tan tầm. Và thứ cây bé bỏng tội nghiệp kia từ đó được định danh là cây Thì là.

Có người bảo Thượng Đế hơi quan liêu và máy móc về giờ giấc.

Có người lại bảo Thượng Đế khôn và hậu hiện đại.

Bất giác nghĩ đến câu thơ tinh quái nổi tiếng của Bà Ba Béo Hoa Kỳ, Gertrude Stein.

A rose is a rose is a rose is a rose

(Một bông hồng là một bông hồng, là một bông hồng, là một bông hồng)

Hậu hiện đại ... thì ... là...

Eiffel 4 Hà Nội 7 - 99
L.Đ
(127/09-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.

  • LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.

  • HỒ THẾ HÀPhân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của tâm sinh lý con người. Nó trở thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi cá thể người.

  • TRẦN THỊ THANH NHỊ “Tôi bị thôi thúc bởi một thứ khao khát hiểu biết có liên quan đến những quan hệ giữa người với người hơn là với các đối tượng tự nhiên.”(Sigmun Freud)

  • TZVETAN TODOROV(Cuộc tranh luận văn học giữa George Sand và Gustave Flaubert - qua đánh giá của Tzvetan Todorov)