Thanh Tùng - nhà thơ của những tươi mới

09:40 19/11/2019

Nhằm đúng ngày sinh nhật của nhà thơ Thanh Tùng, đông đảo văn nghệ sĩ đã tề tựu tại Hội Nhà văn Việt Nam để cùng trò chuyện về tài thơ cũng như cuộc đời ông, trong khuôn khổ hội thảo “Thanh Tùng – còn đây một thời hoa đỏ”. 

Nhà thơ Thanh Tùng. Ảnh: Mễ Thuận

Bên cạnh những câu chuyện thú vị về cuộc đời của Thanh Tùng, có một điều mà nhiều nhà văn, nhà thơ phải “ngả mũ” trước thi nhân Hải Phòng này khi tôn vinh ông là nhà thơ của những tươi mới...

Sần sì mà hiện đại

Nhà thơ Trần Đăng Khoa – Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam bảo rằng, lâu nay trong giới bàn rất nhiều về thơ hiện đại, thơ hậu hiện đại, nhưng nếu có một nhà thơ hiện đại thì đó chính là Thanh Tùng.

Nhà thơ này đã làm việc hiện đại hóa thơ ca từ những năm 70 của thế kỷ trước, “khi chúng ta còn ngơ ngác thì ông đã là một nhà thơ rất hiện đại rồi”, nhà thơ “Góc sân và khoảng trời” nhận định.

Cũng theo nhà thơ Trần Đăng Khoa, thường thường các nhà thơ sẽ viết nhiều thể loại thơ: Lục bát, song thất lục bát, thể thơ tự do... vì lo ngại nếu chỉ sử dụng một thể thơ sẽ dẫn đến tẻ nhạt.

Vậy mà có riêng Thanh Tùng không hề dùng thể loại khác, ông chỉ có một thể loại thơ: Thơ tự do không vần điệu. Nếu người khác phải bám vào vần điệu để đưa đi thì Thanh Tùng không có gì, giống như một người phụ nữ không có son phấn, không có gì để trang điểm cho mình cả.

“Chỉ sần sì thế thôi nhưng thơ ông rất hiện đại, và rất đặc biệt, kéo ra cũng được, co lại cũng được, tôi gọi đó là thơ “cao su”.

Cái đó chỉ xảy ra trong trường hợp của Thanh Tùng mà thôi. Những nhà thơ khác nhấc đi một câu, một chữ là nó xộc xệch cả bài. Nhưng với thơ Thanh Tùng, cắt đi một câu thậm chí cả đoạn bài thơ cũng không thay đổi, thêm vào cũng vẫn thế”, nhà thơ Trần Đăng Khoa tâm đắc nói.

Trong khi đó, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha lại chia sẻ kỷ niệm: “Thanh Tùng dạy tôi một điều: Làm thơ cứ phải phóng khoáng lên, đừng có niêm luật gì cả. Khi nghe tôi đọc bài thơ đầu tiên của mình, trong đó có 2 câu: “Ta lại qua sông khi thành phố rúc còi/ Chào mẹ con nhập vào báo động”, anh liền bảo, cậu làm thơ thế này sẽ tiến xa đấy”.

Luận bàn về cái sự “vụng về” của Thanh Tùng, nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cho rằng, Thanh Tùng có nhiều thiệt thòi, lúc còn sống ông chưa được đánh giá đầy đủ cũng vì ông sống ẩn khuất, giấu kín mình, rất ngại đánh bóng mình.

“Bản chất của người thợ là bằng những việc làm, những sản phẩm cụ thể, thế nên Thanh Tùng rất vụng về trong việc đánh bóng mình, hay anh hoàn toàn không biết cái điều đó để tiếp thị văn chương, Thanh Tùng rất dở.

Thanh Tùng không muốn tiếp thị văn chương vì ông không muốn sống với thị trường, không theo mode,” nhà thơ Hữu Thỉnh “chê” thi nhân thật nhiều như thế để rồi lý giải một cách thấu đáo: “Vì một người đã có bản lĩnh như Thanh Tùng thì cần gì phải tiếp thị, cần gì phải theo mode khi chính bản thân anh đã là mode...”.

 

Nhà thơ Thanh Tùng và người vợ đầu – bà Thanh Nhàn cùng các con. Ảnh: Tư liệu gia đình.

Người thầy và anh thợ

Nhớ đến nhà thơ Thanh Tùng là nhà thơ Nguyễn Thụy Kha nhớ đến người thầy và anh thợ trong thi nhân Thanh Tùng. Người thầy Thanh Tùng đối với Nguyễn Thụy Kha trước tiên là thầy dạy marathon vì theo Thụy Kha, Thanh Tùng vốn là một giáo viên thể dục của trường Thái Phiên.

Chỉ có điều, “học trò” Thụy Kha học mãi cũng chỉ chạy qua được Trường Sơn còn Thanh Tùng có một cuộc chạy vô địch marathon có một không hai - cuộc chạy tìm đến tình yêu. “Anh ấy yêu chị Nhàn đến mức khi nghe tin vợ công tác ở Tiên Lãng anh liền chạy bộ từ TP Hải Phòng sang Tiên Lãng.

Nhưng chạy đến nơi thì chị ấy đã sang Vĩnh Bảo, anh lại chạy tiếp sang Vĩnh Bảo. Nhưng đến Vĩnh Bảo thì chị đã về TP Hải Phòng, anh lại tiếp tục chạy về TP Hải Phòng. Có thể thấy cuộc chạy marathon của anh quá bền bỉ và thơ anh cũng là một cuộc chạy marathon bền bỉ như thế”, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha kể.

Nhắc chuyện, Thanh Tùng còn là một anh thợ đóng tàu của xưởng đóng tàu Bạch Đằng ở TP Hải Phòng, theo nhà thơ Nguyễn Thụy Kha, Thanh Tùng chính là người đã đóng góp đóng những cái đinh đóng vào thân tàu không số để chở vũ khí vào miền Nam đánh Mỹ.

Thế nên, anh thợ Thanh Tùng đã có niềm tự hào của riêng mình vì tuy ông không trực tiếp đi vào miền Nam nhưng ông đã tham gia đóng phương tiện để bộ đội đi vào Sài Gòn. Với vai trò người thợ này, ông đã dạy nhà thơ Nguyễn Thụy Kha đóng từng cái đinh vào thân tàu khi anh đi thực tập ở nơi Thanh Tùng làm việc.

Bình luận về điều này, nhà thơ Nguyễn Thụy Kha cho rằng, việc Thanh Tùng tham gia đóng những con tàu không số cũng giống như anh đóng những tàu thơ của mình để không số mãi mãi – Thanh Tùng làm thơ rất hay nhưng không cần tên.

Vậy “học trò” Thụy Kha đã trả “học phí” cho “ông thầy” Thanh Tùng những gì? Nhà thơ này kể, học phí đắt nhất của ông là phải trở thành “cái thùng rác” để Thanh Tùng ném nỗi buồn vào, ném đến tận cùng vì Thanh Tùng thường không biết chia sẻ cùng ai.

Đã nhận “học phí” như thế song Thanh Tùng vẫn “nhắc nhở” Thụy Kha bổ sung “học phí” bằng việc phổ thơ. Dù kêu với bạn rằng, thơ ông khó phổ nhạc lắm, thế mà cuối cùng Thụy Kha vẫn tìm kiếm được bài thơ phù hợp để phổ nhạc thành công bài thơ “Về Quảng Yên” của Thanh Tùng.

Nhạc sĩ Phú Quang người đã phổ nhạc thành công những bài như “Hà Nội ngày trở về”, “Mùa thu giấu em”, “Người về”... của thi sĩ Hải Phòng thì bảo rằng, thơ Thanh Tùng ý tứ luôn đầy ắp nên không khó để phổ nhạc.

Ông cũng phục lắm tài thơ Thanh Tùng – một tài thơ đầy nhạc cảm. Chẳng hạn, đọc những câu thơ: “Có phải mùa thu giấu em lâu đến thế/ Để cuối con đường anh kịp nhận ra em...” (Mùa thu giấu em), người nhạc sĩ tài hoa này phải thốt lên, sao mà Thanh Tùng lại phát hiện ra điều đó?

Khi vào Sài Gòn, Thanh Tùng hay qua nhà Phú Quang để trà dư tửu hậu. “Anh ấy là người rất hiền, rất hồn hậu, rất thật và cũng rất lành. Lúc anh ốm, tôi có đưa anh mấy chục triệu tiền bản quyền anh ấy không muốn nhận vì thấy... nhiều quá. Khi hay tin anh ấy qua đời, tôi đang ở nước ngoài nên đã rất buồn thương...”, nhạc sĩ Phú Quang xúc động nói.

 Nhà thơ Thanh Tùng và nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng. Ảnh: Nguyễn Đình Toán.
 

“Nàng thơ” của thi nhân

Nhà thơ Trần Đăng Khoa bảo mình có được may may mắn vì 5 năm là lính hải quân đóng ở Hải Phòng nên có dịp tiếp xúc với nhà thơ Thanh Tùng. Gần như tuần nào ông cũng ra quán bán hàng của vợ chồng Thanh Tùng vừa để chuyện trò, vừa nhờ vả chuyện tiền bạc (những lúc viêm màng túi).

Theo ông, vợ chồng Thanh Tùng rất nghèo và không có nhà thơ nào khổ như Thanh Tùng. Bởi vì nếu như phần lớn thi sĩ đều bám vào báo, lấy báo để nuôi văn, nuôi thơ, riêng Thanh Tùng thì không.

Ông làm thơ cả đời nhưng lại sống bằng cái nghề không liên quan đến thơ, đó là nghề bốc vác – cửu vạn. Có nhà thơ đã dựng chân dung của ông là “Bác làm nghề cửu vạn, thường áp tải đường bộ đường sông...” để rồi xót xa cảm thán: “Ai ngờ một nhà thơ – phải sống bằng nắm đấm”.

Cuối đời, Thanh Tùng xin nghỉ một cục rồi không lương hưu, nguồn tài chính gần như không biết trông vào đâu. “Bù lại, anh lại có tài thơ rất đặc biệt. Thơ Thanh Tùng không vần trúc trắc trục trặc, rất dài nhưng có điều rất lạ là chị Nhàn (người vợ đầu của thi nhân) gần như bài nào cũng thuộc.

Mỗi lần đến quán của chị là tôi được nghe chị đọc thơ của anh. Theo tôi, chị Nhàn cũng là một nhân vật rất đặc biệt tạo cho Thanh Tùng có cái hào hứng để mà làm thơ”, nhà thơ Trần Đăng Khoa nói về “nàng thơ” của Thanh Tùng.

Nhắc nhớ như thế để rồi ông xót xa: Với thơ tài như thế, hay như thế, sâu sắc như thế, hiện đại như thế nhưng Thanh Tùng vẫn nằm ngoài giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam và Giải thưởng VHNT của Nhà nước. Vì vậy nhà thơ Trần Đăng Khoa đề nghị Hội Nhà văn Việt Nam làm thế nào để có giải thưởng trao sớm cho hai thi nhân: Thanh Tùng và Thạch Quỳ.

Trong khi đó, một mặt xác nhận rằng chính vợ cũ Thanh Nhàn là “nàng thơ” của Thanh Tùng thì nhà thơ Nguyễn Thụy Kha có phần trách cứ người bạn của mình rằng sao lại có thể đi ghen với quá khứ của “nàng thơ” để rồi phải mãi mãi chia xa...

Giữa câu chuyện lặng buồn này, nhà thơ Hữu Thỉnh lại chia sẻ những cảm phục của ông về nhân cách Thanh Tùng: “Ở bất cứ đâu, tôi chưa từng thấy Thanh Tùng nói xấu ai, kể cả người gây cho anh cay đắng đau khổ vô cùng. Điều đó đẹp đẽ lắm mà đáng để chúng ta học tập từ anh”.

 

“Anh Thanh Tùng đã được hai giải thưởng văn học: Giải thưởng Văn học Công nhân và Giải thưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm của TP Hải Phòng. Anh thừa tiêu chuẩn để được xét Giải thưởng VHNT Nhà nước. Thế nhưng, nhiều lần tôi gọi điện nhắc anh việc làm hồ sơ mà lần nào anh cũng khiêm tốn bảo chờ mình hoàn thành nốt tập thơ...
Tiếc thay, thời gian đã không chờ anh. Anh đã tạm biệt cõi trần từ ngày 12/9/2017, hưởng thọ 83 tuổi! Chỉ sang năm sau Tết, nhất định Thanh Tùng sẽ được nhận Giải thưởng Nhà nước. Tôi tin là như vậy. Và tôi cũng rất mong Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng có đề xuất với TP Hải Phòng sớm đặt tên anh cho một đường phố của Hải Phòng. Anh hoàn toàn xứng đáng về nhân cách văn hóa, về bản lĩnh để được nhận những sự tôn vinh đó”.
Nhà thơ Hữu Thỉnh
 

Theo Bình Thanh - GD&TĐ

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên  toàn quốc.

  • Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…

  • 1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.

  • Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.

  • Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.

  • Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.

  • Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).

  • Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.

  • Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.

  • Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.

  • Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.

  • Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".

  • Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.

  • hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?

  • Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.

  • Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.

  • Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.

  • Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.

  • Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn  Nguyễn Đình Thi -  người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).        

  • Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.