VALENTIN HUSSON
Trước hết, ta phải hướng sự chú ý đến động từ “cách ly” khi mà với tư cách là một ngoại động từ, nó có nghĩa là sự vứt bỏ ra khỏi một giới hạn; trong khi với tư cách là một nội động từ, nó hướng đến sự ràng buộc để ở lại trong một vài giới hạn nhất định. Nó vừa nói lên cả sự vứt bỏ lẫn sự rút lui; vừa hiện diện vừa vắng mặt.
Ảnh: unphilosophe.com
Ở động từ “cách ly” xuất hiện một sự cô đơn rút lui khỏi mọi giới hạn. Đời sống sống động nhất chỉ khả hữu trong chính sự rút lui khỏi đời sống này. Đạo đức luôn giả định một sự lựa chọn buộc tôi phải tự mình hành động, chứ không phải người khác, trước một mối nguy nào đó: vì thế, đạo đức luôn ẩn chứa sự cô đơn, qua đó tôi là người duy nhất có thể hồi đáp lại người khác và với người khác, qua đó một lần nữa, sự cô đơn cũng sẽ được nhân đôi; tôi cô đơn trước trách nhiệm của mình.
Vì lẽ ấy, trong thời gian cách ly này, thế giới tìm thấy được một trật tự mới cho sự tương giao hài hòa giữa những điều đẹp đẽ cùng những điều thô bỉ của việc cách ly, trong việc- được-là-chính-mình ta nhận thấy một đời sống đang miễn dịch trước cái chết, trước một đời sống tập thể. Sự cách ly cách ly sự đoàn kết.
Cái xuất hiện trong những cộng đồng đang tự miễn dịch để chống lại virus này bằng cách tự cách ly là một thứ lô-gic nghịch lý: tôi càng sống cả đời thì tôi càng cô đơn, vậy ra tôi lại càng muốn có sự đoàn kết. Việc- được-là-chính-mình giúp hình thành nên một cộng đồng. Sự phong thành không có nghĩa là sự cô lập và đồng thời mở ra một sự vứt bỏ đạo đức. Đoàn kết không được tìm thấy từ đám đông mà từ sự ẩn dật và cô đơn.
Người khác chỉ có thể ảnh hưởng đến tôi trong bộ dạng yếu đuối của anh ta. Đặc biệt là khi mình tôi đối diện với chính tôi, tôi nhận ra rằng tôi cô đơn với người khác, cô đơn trước việc mình tôi và một ai đó hay “chính mình như một người khác” như cách nói của Ricoeur. Cách ly là kinh nghiệm về những gì mà cô đơn giáp mặt với sự đoàn kết.
Vậy cô đơn là gì? Nếu không có khoảng thời gian cách ly dài ngày này, khi mà ở trước bản thân tôi chẳng hề có trò tiêu khiển nào, tôi liền nghĩ đến đời sống của mình, và do đó, về cái chết của tôi. Hay nói theo kiểu của Pascal: trong sự cô đơn, sự buồn chán được bộc lộ; chúng ta tìm cách chạy trốn khỏi nó là bởi vì ta dễ sống hơn với một chiếc bịt mắt trước mắt. Khoảng thời gian kéo dài này, khi mà từ Langweile trong tiếng Đức [vừa có nghĩa là một khoảng thời gian dài, vừa chỉ sự nhàm chán] diễn đạt tốt hơn tiếng Pháp, hé lộ một sự thay đổi đáng kinh ngạc rằng, khi thời gian trôi qua, ấy không phải là thời gian đã trôi qua mà là chúng ta đang trôi qua.
Do đó, lối thoát cho thời điểm hiện tại và trước tất cả những gì nhàm chán, hay việc liên tục quay quần tìm kiếm sự giải trí cùng những mạng lưới vô lo vô nghĩ, cũng như các sở thích đã lãng quên cùng một điều rằng chính chúng ta mới là thứ đang trôi qua. Tuy nhiên, chính trong sự cô đơn này, nơi mọi người đều ý thức về cái chết của mình, hay về sự khả tử của mình, một sự đoàn kết chưa từng có liền được định hình. Để hoàn toàn là người khác, tôi phải hoàn toàn cô đơn. Khi mình tôi với chính tôi, tôi hiểu rằng tất cả chúng ta đều cô đơn khi đối mặt với định mệnh và giới hạn chung của chúng ta chính là cái chết.
Đoàn kết giả định sự cô đơn giống như thế tục giả định việc lui về sống ẩn dật. Sự rộng lượng đi kèm với việc- được-là-chính-mình giống như thế giới tự thống nhất mà lại không có thế giới. Từ đó, để bảo vệ đời sống, nghĩa là phải bảo vệ bản thân mình trên hết.
Hồ Hải Nhật dịch
(Nguồn: Valentin Husson |Petites réflexions sur le confinement et le verbe “confiner” (24/03/2020): https://unphilosophe.com/2020/03/24/petites-reflexions-sur-le-confinement-et-le-verbe-confiner/)
(TCSH378/08-2020)
THUẬN AN
(Đọc cuốn ký sự đường xa “18 tuổi và chuyến phượt solo đầu đời trên đất Mỹ” của Phạm Nguyễn Linh Đan, Nxb. Hội Nhà văn 2018).
(Để tưởng niệm thi sĩ Mary Oliver, vừa mất ngày 17 tháng 1, 2019, tại Florida, 83 tuổi)
ĐỨC TÙNG
CHU HUY SƠN
Khó có thể kể hết những nhà thơ Việt Nam và thế giới bắt gặp cảm hứng từ cuộc đời cao đẹp và vô cùng trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để sáng tác nên những tác phẩm về Người. Song, tôi cho rằng, bài thơ “Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ” của nhà thơ Cuba là một trong những sáng tác hay nhất viết về Bác.
Sinh năm 1947 tại Rio de Janeiro, Brazil, 40 tuổi mới viết và xuất bản cuốn sách đầu tiên, Paulo Coelho được xem là nhà văn (còn sống) được đọc nhiều nhất thế giới: tuy số lượng tác phẩm đến nay chỉ trên 20 cuốn, nhưng đã phát hành đến 86 triệu bản tại 150 quốc gia, trong đó có nhiều cuốn luôn ở trong danh sách best- seller (số liệu tính đến tháng 6/ 2015). Ngày 22/12/2016, trong danh sách 200 tác giả có ảnh hưởng lớn nhất thế giới do công ty Richtopia đề xướng, Paulo Coelho được kể tên ở vị trí thứ 2.
WILLIAM D. ADAMS
LGT: William D. Adams hiện là học giả cao cấp tại quỹ hỗ trợ nhân văn và khoa học nghệ thuật lừng danh Andrew W. Mellon của Hoa Kỳ. Từ 2014 - 2017, ông được Tổng thống Obama (lúc đương nhiệm) bổ nhiệm giữ chức vụ chủ tịch Tổ chức Quốc gia về Nhân văn (NEH) - cơ quan độc lập của chính phủ tài trợ các dự án văn hóa, nghệ thuật, và giáo dục.
PABLO NERUDA
LGT: Pablo Neruda, nhà thơ Mỹ Latinh nổi tiếng thế giới, sinh năm 1904 tại Parral, Chile. Năm 1920 ông đến Santiago để học tập và công bố bài thơ đầu tiên “La canción de la fiesta” (1921), rồi được biết đến rộng rãi qua tập thơ “Crepusculario” (1923).
PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO
Tôi xin được dùng tên một bài thơ viết tại Paris của mình làm tựa đề cho bài viết này. Đó là những cảm xúc thăng hoa, những phút giây hạnh phúc và cũng là những kỷ niệm khó quên cùng bạn thơ của 24 quốc gia tham dự cuộc thi Slam thơ Quốc tế 2018 tại Paris tháng 5/2018 vừa qua.
PHẠM HỮU THU
Nhân loại kính nể không chỉ vì đất nước Nhật Bản bình tĩnh ứng phó thiên tai mà còn gây thiện cảm qua hành vi ứng xử của họ.
NGUYỄN THANH VIỆT
Nguyễn Thanh Việt là nhà văn gốc Việt đoạt giải văn chương Pulitzer, tác giả của “The Sympathizer,” “The Refugees,” và “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War.” Ông hiện là giáo sư Anh văn tại Đại học Nam California (Mỹ).
(T. Segers đặt câu hỏi, Hans Robert Jauss trả lời, Timothy Bahti dịch [sang tiếng Anh], Tạp chí New Literary History, Vol. 11, No. 1, Johns Hopkins University Press, 1979).
HENRY SLESAR
Nhà văn nổi tiếng Henry Slesar (1927 - 2002) viết tiểu thuyết, kịch bản, trinh thám, khoa học viễn tưởng đặc sắc về thủ pháp hài hước, kết cục trái chiều.
PHẠM ĐĂNG
Thế giới vừa vĩnh biệt một thiên tài: Stephen William Hawking.
Ngày sinh của Hawking (8 tháng 1 năm 1942) đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo Galilei (8 tháng 1 năm 1642). Ông qua đời (14/3/2018) vào ngày số Pi, cũng là ngày sinh của Albert Einstein (14 tháng 3 năm 1879).
Robert Arthur, Jr. sinh năm 1909, tại Philippines, nơi cha của ông, sĩ quan quân lực Hoa Kỳ, đóng quân. Tuổi thơ của ông cũng theo chân cha nay đây mai đó, có điều là ông không nối nghiệp cha (dù đã được nhận vào trường West Point), mà chọn học ngành văn chương.
HENRY JAMES
Henry James: Nhà văn Mỹ (1843 NewYork - 1916 Luân Đôn), viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học, nghệ thuật Pháp. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009). Chủ đề: Ý thức, tâm lý; mơ mộng, tình cảm; vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Trước khi biết lòng tử tế là gì
Bạn phải mất đi nhiều thứ
NGUYỄN DƯ
Đọc Thơ Đường bất ngờ thấy bài Lương Châu từ của Vương Hàn (687 - 726):
Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi.
PHẠM TRƯỜNG THI
Tôi và nhà văn Hà Phạm Phú nhận lời mời của Hội Nhà văn Việt Nam đi dự Hội thảo văn học quốc tế Trung Quốc và các nước lưu vực sông Mê Kông gồm: Myanmar, Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam được tổ chức từ ngày 21 đến 25 tháng 5 năm 2017 tại thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, khu tự trị dân tộc Choang Trung Quốc.
W.S. PEIRIS
W.S.Peiris sinh 1932; đạt giải nhì truyện ngắn tiếng Anh trong cuộc thi Văn học quốc gia Tích Lan năm 2008. Hiện ông sống tại Kiribathgoda, Sri Lanka.
PHẠM TẤN XUÂN CAO
Chủ nghĩa hiện đại khởi đi với các đại tự sự và niềm tin vô điều kiện của nó vào Lý tính đồng thời chủ nghĩa hậu hiện đại nổi lên để phản ứng lại sức hướng động tuyến tính như thế của chủ nghĩa hiện đại, khi mà nó luôn muốn cổ xúy cho một sự bất tín về phía các đại tự sự và tiến hành giải kiến tạo chúng.