Tản mạn Balzac

10:45 17/12/2009
ĐỖ ĐỨC HIỂU…Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh…

Văn hào Honoré de Balzac - Ảnh: wikimedia.org

Năm nay, 1999, Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Balzac. 1799 đã "giáng sinh" ở thành phố Tours (Pháp) một thiên tài tiểu thuyết, người đã hoàn chỉnh nghệ thuật tiểu thuyết của nhân loại, đưa nó lên đến đỉnh điểm, đến mức "tuyệt đối", mức "cuối cùng", như đánh giá của Barthes ("roman absolu", "roman définitif", tức là tiểu thuyết hoàn chỉnh, biểu hiện mọi sức sáng tạo của Balzac. Biết bao nhân vật sống mãi trong lòng người đọc, những Eugénie Grandet, Augustine (Guillaume, Fanny Malvaut, Eve Chardon, quận chúa De Cardignan và Daniel d' Arthez, tương phản với lão Grandet, Gobseck, nữ hầu tước D' Espard v.v... Tôi nhớ đến bức tường phù điêu khắc họa hàng trăm nhân vật trong Tấn trò đời ở Nhà Balzac (còn gọi là Bảo tàng Balzac); chị Lê Hồng Sâm, một chuyên gia Balzac, và tôi, sau khi xuống mấy chục bậc thang, ngồi nghỉ ở một khu vườn thoáng, trồng nhiều cây hoa, cây cảnh, một khuôn viên rực rỡ màu xanh, màu vàng của lá cây.

Chúng tôi ngắm nhìn bức tường lớn phù điêu và như thấy cả một lịch sử nước Pháp thế kỷ XIX, nhốn nháo, xáo động, những bi kịch và những hài kịch, những anh hùng ca và những bài thơ, ngập trong không khí cái kỳ ảo. "Một thế giới kỳ ảo", tôi nghĩ thầm. Có lẽ đúng vậy, tiểu thuyết Balzac vang vọng thơ mộng và cái kỳ ảo, cũng có lẽ vì vậy mà nó sống với chúng ta, với toàn thể nhân loại, từ gần hai thế kỷ nay. Một ngày chủ nhật, cuối mùa hè 1982, hai chúng tôi đến nghĩa trang Père - Lachaise, một khu rừng thưa, bát ngát, những con đường sỏi rộng, ngang dọc, với những lối rẽ nhỏ trồng nhiều cây tỏa ra tứ phía. Gần trưa, mặt trời lộng lẫy, nắng đổ chan hòa trên các vòm cây xanh, long lanh sương đêm còn đọng lại. Chúng tôi tìm đến mộ Balzac trước tiên, rồi tìm mộ Paul E luard, rồi hai nấm mộ khiêm nhường, cũ kỹ, cây leo, nhiều lá đã khô, của Molière và La Fontaine liền kề nhau. Cành lá nghĩa trang rì rào; xa xa, như vẳng lên tiếng nhạc Chopin hòa với nắng vàng.

Tượng bán thân Balzac ở nghĩa trang Père - Lachaise - Ảnh: dactrung.net

Tượng bán thân Balzac bằng đồng đen, đứng thẳng trong hàng rào thấp sơn xanh; có mấy bó hoa tươi, ai mới đặt dưới chân tượng. Tôi ngước nhìn lên; vầng trán và ngực Balzac sáng chói, lấp lánh ánh nắng gần thu. Balzac đứng đó với thời gian, vừa mênh mông vừa khiêm tốn, vừa hiện tại vừa vĩnh cửu, trái tim ấy, khối óc ấy còn đang rạng rỡ, còn đang xúc động, suy tư, còn đang sáng tạo những cảnh đời kỳ ảo của nhân gian, hòa nhập và tương ứng với thế giới vô cùng vô tận đầy bí ẩn. Chúng tôi chiêm ngưỡng Balzac hồi lâu rồi thơ thẩn đi trên những con đường sỏi. Một khoảng đất tròn phơi nắng, chung quanh là những chiếc ghế dài bằng đá. Nhiều khách du lịch đã ngồi đấy, có lẽ là Nhật, Mỹ, hoặc Thụy Điển; họ ăn bánh, uống nước. Chúng tôi chọn một cái ghế dài dưới bóng cây; một cảnh tượng vui mắt ; những chú mèo, nhiều lắm, có đến hơn một chục mèo hoang, béo núc ních, mèo đen truyền, trắng muốt, hoặc tam thể, hoặc mướp, hoặc vàng óng ánh, nhanh nhẹn đớp hoặc nhặt những miếng bánh, miếng giăm-bông khách ném cho chúng. Chúng tôi từ biệt Père - Lachaise, thấp thoáng trong đầu hình bóng Balzac, Chopin, La Fontaine, Molière, E luard... Đến nay, gần hai chục năm đã trôi qua.

Balzac không những là nhà sáng tác tiểu thuyết vĩ đại, ông còn là một nhà lý luận tuyệt vời về tiểu thuyết, - với Lời nói đầu bộ Tấn trò đời; nhà nghiên cứu Pierre Chartier, giáo sư trường Đại học Paris 7, đánh giá nó là "Thi pháp tiểu thuyết" của Balzac. Balzac viết Lời nói đầu năm 1843, sau mười ba năm viết nhiều tiểu thuyết sẽ được ông sắp xếp trong bộ Tấn trò đời, và ông viết tiếp trong tám năm nữa, (trong hơn hai mươi năm, 1829 - 1851) hoàn thành chín mươi cuốn tiểu thuyết trong số trên một trăm ba mươi cuốn dự kiến cho bộ Tấn trò đời.

Tác phẩm vĩ đại này được Balzac quan niệm và viết như "trong một giấc mơ" (Rêve) như trong "một ảo giác" (chimère), như "một gương mặt phụ nữ đang mỉm cười", - giấc mơ "bay bổng trong bầu trời kỳ ảo"; đó là những câu chữ mở Lời nói đầu của Balzac; có thể thấy ngòi bút của Balzac là ngòi bút "kỳ ảo" (fantastique); ngòi bút (stylus) ấy sẽ được gọi là "phong cách" (style).

Với phong cách kỳ ảo, Balzac sáng tạo nghệ thuật tiểu thuyết hoàn chỉnh, "tuyệt đối", "cuối cùng". Nghệ thuật tiểu thuyết của ông rất đa dạng, muôn nghìn sắc thái, nó là kịch (tấn trò, comédie) với những cảnh (cảnh đời tư, cảnh đời Paris v.v...), nó là thơ, là truyện, là đối thoại; nó đi khắp các ngả đường, xông xáo vào các ngõ hẻm, các lâu đài, vùng thôn dã; nó là hành động, là trái tim, là triết lý, với biết bao "ngoại đề" rẽ ngang, rẽ dọc (làn sóng ngầm của lịch sử, của xã hội); chỉ xét một câu văn, cũng thấy nó đâm nhành, mọc mầm, nảy lộc, ra tứ phía, nhiều tiếng nói xô đẩy nhau, xen lấn nhau, - như mỗi tiểu thuyết của ông, như chính bộ Tấn trò đời, tưởng như vô cùng tận. Trí óc, sức khỏe, trái tim, suy tư, cảm xúc, ước mơ, tức là tất cả con người Balzac tràn trề ham mê, say đắm, khoa học, tôn giáo, cái thật lịch sử và xã hội, ảo mộng và ác mộng, liên kết với nhau, hòa hợp, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc, kèn trompette, violon, viola, violoncelle, trống, sáo, khoảng trống, thanh la...

Balzac đã khai thác tinh thần truyền thống tiểu thuyết Rabelais, bà De Lafayette, Walter Scott, ông khai thác thế kỷ ông và, với bộ óc phi thường, với sức lực khổng lồ, ông sáng tạo biết bao điều kỳ diệu bay bên trên tất cả thế kỷ: khoa học của Cuvier, Buffon Saint - Hilaire và tôn giáo, lịch sử và trái tim; nhờ có Buffon chẳng hạn, ông thấy các "loài giống" trong xã hội, các "types" (kiểu người) trong lịch sử thế kỷ XIX ở Pháp, những người quý tộc, những thầy kiện, cha cố, tỉnh lẻ, Paris, "người phụ nữ ba mươi tuổi", người độc thân, hàng trăm kiểu người - như trong các "loài thú", sói, cáo, rắn, sư tử, mèo, gà, sâu bọ v.v... và ông thấy những môi trường tạo nên những con người. Song, khác với loài vật, con người có phong tục, có nghệ thuật, văn học, thời trang (con vật thì tĩnh tại); cuộc sống con người là những ngẫu nhiên; ông viết: "Ngẫu nhiên là nhà tiểu thuyết vĩ đại nhất trên thế gian này" (Lời nói đầu). Truyện của ông là sự tập hợp những ngẫu nhiên; vì vậy, truyện của ông kỳ ảo, nhân vật của ông kỳ ảo, thời gian, không gian của ông kỳ ảo, những "sự thật" biến diễn quanh ông. Ông coi trọng các nhà khoa học tự nhiên bao nhiêu, ông tôn quý các "nhà văn thần bí" bấy nhiêu (như Saint - Martin, Swedenborg...). Trong Tấn trò đời, biết bao nhân vật vượt ra ngoài môi trường, truyền thống gia đình của mình, và đến với tình yêu. Lão Grandet càng tiến gần đến cái chết, càng tàn bạo, độc đoán; còn với Eugénie thì ngược lại sắc tăng trưởng ấy, mối tình ảo vọng của cô ngày càng sâu đậm, đằm thắm. Hai cái "đường cong" ngược chiều này của mô hình tiểu thuyết Eugénie Grandet, là một sáng tạo nghệ thuật lớn của Balzac. Và cô gái Augustine diễm lệ trong Mèo chơi bóng, vượt qua "môi trường" nhà buôn cổ lỗ của mình, đến với một họa sĩ thiên tài. Như vậy, trong Tấn trò đời, hoàn cảnh không hoàn toàn quy định nhân vật; những nhân vật đẹp của Balzac có tự do.

Balzac có tham vọng bộ sách của ông là một quyển "lịch sử nước Pháp thế kỷ XIX"; mỗi truyện trong bộ sách sẽ là một trang, hoặc một giai đoạn, một thời kỳ của lịch sử. Quan niệm của ông về "lịch sử" là một đóng góp quan trọng vào nghệ thuật tiểu thuyết lúc bấy giờ. Sau khi phê bình "lịch sử" trước đó, nó chỉ là những thống kê sự kiện, liệt kê nghề nghiệp, cái thiện, cái ác..., Balzac muốn viết một lịch sử sống động, lịch sử những động lực bên trong, lịch sử tư tưởng, phong tục, tập quán. Chắc là Balzac gửi ý tưởng của ông trong nhân vật hầu tước D' Espard (truyện Luật cấm, L' Interdiction), người đã bỏ tất cả gia sản nghèo nàn của mình sau bao biến động chính trị, để viết tác phẩm đồ sộ Lịch sử bằng tranh nước Trung Hoa. "Người thư ký" tài ba của nhà sử học xã hội, để lại cho ngày nay, một pho lịch sử, với những sự kiện và những trái tim, trên mọi bình diện, vĩ mô và vi mô, - chính trị, kinh tế, thời trang, nghệ thuật, văn hóa, những bi kịch và những hài kịch, những ham mê, nguồn gốc của các biến động lịch sử, - mà biết bao sử gia La Mã, Athènes, Ấn Độ, Ba Tư... đã bỏ quên. Bạn bè ông, những người đọc không quen biết, khích lệ ông: "Cầu Chúa cho ông sống lâu"; đoạn mở đầu và đoạn kết thúc Lời nói đầu đầy hương sắc, đầy phấn khích. Tấn trò đời là một giấc mơ.

Và, người đọc biết bao suy nghĩ về một câu có thể gọi là bao trùm cả bản "Tuyên ngôn", hoặc "Thi pháp" về tiểu thuyết này (tức Lời nói đầu): "Tôi viết dưới ánh sáng le lói của hai chân lý vĩnh cửu: tôn giáo và chế độ quân chủ"; tôi hiểu: tinh thần của tôn giáo là tình thương yêu, lòng bao dung; tinh thần của nền quân chủ là tinh thần thượng võ, cao thượng, lòng tri ân, trí thức uyên thâm.


Trên một chuyến xe buýt Hà Nội - Hà Đông, hai thanh niên, một nữ, một nam, tuổi chưa đầy hai mươi, có lẽ là sinh viên, trao đổi khe khẽ với nhau một câu chuyện văn chương. Tôi lắng nghe. Người con trai nói:

- Balzac bảo ông viết dưới ánh sáng của hai chân lý vĩnh cửu, cậu biết rồi đấy, có nghĩa là... là, thế nào nhỉ....à là ông có thiện cảm với giai cấp đã tiêu vong; tớ nhớ rồi... song, trong Tấn trò đời, ông lại châm biếm, mỉa mai chua chát các ông bà quý tộc một cách rất sắc bén..., ấy đại khái như thế, thế là trong Balzac, nhà chính trị và nhà sáng tác đối nghịch nhau... có phải không?

Cô gái ngập ngừng đáp:

- Tớ cũng nhớ... đại khái như vậy... nhưng trong Balzac có mâu thuẫn à? Chả có lẽ.

- Để về đọc lại...

- Đọc tác phẩm, đọc lại tác phẩm... xem thế nào.

Tôi có cảm tình và thầm mến yêu hai thanh niên ham hiểu biết kỹ lưỡng này. Riêng tôi, tôi nhớ Balzac viết trong Lời nói đầu: "Tôi viết dưới ánh sáng le lói của hai chân lý vĩnh cửu...", tiếng Pháp: "J' écris à la lueur de deux Vérités éternelles...", tôi đã suy nghĩ về từ lueur, có nghĩa là ánh sáng le lói, hay mờ nhạt, hay xa mờ, hay yếu ớt; tinh thần của tôn giáo và của nền quân chủ chỉ còn thấp thoáng chiếu sáng; hai thể chế này đã sụp đổ trên nửa thế kỷ, khi Balzac viết Lời nói đầu (từ cách mạng nhân quyền Pháp, 1789). Balzac căm ghét các công nương, công tử, các hầu tước, bá tước, nam hay nữ, các quận chúa, vương tôn sống hiện nay, hư hỏng và phá hoại tất cả, đạo đức, gia phong... họ không phải "chủ nghĩa chính thống". Trong Tấn trò đời, còn le lói hình ảnh xa mờ của hầu tước D' Espard (truyện Luật cấm); còn chút tài sản, hầu tước D' Espard ở một căn hộ nghèo; ông cặm cụi đêm ngày sưu tầm, nghiên cứu, viết và xuất bản một công trình khoa học đồ sộ về lịch sử nước Trung Hoa; ông dành dụm từng đồng tiền để giáo dục hai con trai: ông dạy con cưỡi ngựa, săn bắn, dạy triết học, khoa học tự nhiên, ngôn ngữ học, lịch sử phương Đông, luật pháp, ngoại giao... Ý tưởng của Balzac trong Tấn trò đời và ý tưởng chính trị của ông là nhất quán.


Lần thứ hai, tôi đến "Nhà Balzac"; lại xuống những bậc thang hun hút; lần này, để ngắm nhìn lại bức tường phù điêu các nhân vật trong Tấn trò đời. Bất giác, tôi tìm phù điêu Eugénie Grandet; có phải nàng ngồi kia, trên chiếc ghế dài, chìm trong giấc mơ? Và tôi tìm phù điêu Augustine (Mèo chơi bóng); nàng đâu? Hình như không có. Hai khuôn mặt tuyệt đẹp trong sáng tác của Balzac; hai bản tình ca, hai bi kịch, hai bài thơ, hai chân dung kỳ ảo. Hai người con gái ấy "ngẫu nhiên" bước vào tình yêu, như vào một xứ sở xa lạ, như lạc loài, như say mê, như những người xa lạ, như đắm đuối. Eugénie Grandet là tiểu thuyết một cuộc gặp gỡ, một sự chờ đợi, của cái chết; số phận của người phụ nữ là sự chờ đợi, xa mờ, vô vọng. Eugénie tích lũy những xót thương, những nhớ mong, những ngày bị giam tù, ăn cơm nhạt, uống nước lã, tang mẹ, cô độc, cô đơn, và biến nó thành một mối tình ngày càng sâu đậm cao cả; như một nhà luyện đan thời Trung Cổ, nàng biến cái tầm thường, cái đau khổ hàng ngày, trong đêm tối, thành một kho vàng trong trái tim nàng, tức tình yêu. Chàng công tử parisien, cái hôn, cái ghế dài trong vườn... tất cả những kỷ niệm ấy đã biến thành một thiên đường, một kho vàng và kim cương, nàng ấp ủ nó, nàng vứt bỏ tất cả tài sản khổng lồ của cha để lại, nàng sống với nó, chìm đắm trong kho vàng lung linh ấy. Eugénie là tình yêu, tình yêu thuần túy (hay tuyệt đối) mà nhân loại ước mơ.Augustine cũng vậy, choáng váng bước vào tình yêu; Eugénie sống với kỷ niệm, quá khứ, với những khoảng trống, còn Augustine sống với hiện tại; nàng từ bỏ gia đình nhỏ hẹp, đến ở khu phố sang trọng, dinh thự sang trọng, nàng lạc vào những "thính phòng" quý tộc; khi bị nghệ sĩ thiên tài phụ bạc, nàng trở về nhà cha mẹ, lại ra đi, nàng vùng vẫy khắp nơi để tìm lại tình yêu, cuối cùng bước vào lâu đài một phu nhân "tình địch". Song ở đâu nàng cũng là người xa lạ; nàng lạc trong một mê cung, rồi chết.

Tiểu thuyết thường là sự tiếp diễn những ngẫu nhiên; nó đưa người đọc từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Nhân vật của Kafka cũng vậy. Samsa sáng ngủ dậy, thấy mình đã hóa thành con bọ bẩn thỉu. K, và Joseph K., một chàng ngủ dậy, thấy mình bị kết án, chàng đi tìm tòa án, thì lạc vào một mê cung không lối thoát; cuối cùng, hai bóng người lờ mờ dẫn chàng đến một nơi vắng vẻ, lấy dao đâm vào cổ chàng, "ngoáy ngoáy hai lần". Còn anh chàng đo đạc thì bỗng nhiên mất thiên đường; cái "lâu đài" chàng đi tìm, ở ngay đấy, trước mắt, nhưng chàng đến gần thì nó lùi xa, xa tít; chàng cũng lạc vào một mê lộ mênh mang, mờ mịt, - thế giới hiện đại, bất công và phi lý; anh nhân viên đo đạc, chẳng "đo" được cái thế gian huyền bí này.

Balzac báo hiệu Zola, nhà văn xây dựng các huyền thoại hiện tại, những Vệ nữ - Nana, những Minotaures - Vùng mỏ, với biết bao mê lộ, mê lộ đủ các kiểu: Bảo tàng Louvre là một mê lộ; Quán rượu là một mê lộ; Đến với "Hạnh phúc các Bà" là một mê lộ thời trang, Etienne Lautier tự hủy hoại trong mê lộ Montsou, cái đầu tàu hỏa bốc cháy như bó đuốc, chạy như điên trong một mê lộ tối mịt mù.

Eugénie, Augustine, K.và Joseph K., Gervaise, Etienne, v.v... Không có sợi chỉ Ariane để thoát khỏi những mê cung, mê lộ hiện đại ấy. Và những nhân vật ấy đã chết.

Vậy, Balzac là ai? Với tôi, Balzac là Tiểu thuyết, và Tiểu thuyết là Balzac, - tiểu thuyết Balzac là "tiểu thuyết tuyệt đối", tức là nó biểu hiện tất cả sức mạnh sáng tạo của ông, tất cả cái "lực" của ý thức và tâm linh, của khoa học và tôn giáo, từ cấu trúc truyện và thời - không gian (chronotope), đến cấu trúc nhân vật, tất cả phối âm, tương ứng với nhau thành một dàn nhạc hoàn chỉnh. Ông khám phá những chức năng, những mối liên hệ bên trong của từng chi tiết, từng tác phẩm, của đồ vật, môi trường với nhân vật, với con người và xã hội. Ông không sao chép, không tái hiện, không phản ánh hiện thực; ông khám phá và ông sáng tạo. Thế giới balzacien là thế giới hư ảo, được xây dựng bằng nghệ thuật ngôn từ hư ảo.

Với Balzac, theo tôi hiểu, cuộc sống là những cạm bẫy, mỗi con người là một bí ẩn, là một ẩn số, là một bí mật của vũ trụ. Mỗi tác phẩm của ông là một câu hỏi trước cuộc đời; nhà văn không bao giờ trả lời (chỉ có những écrivants (tạm dịch: những người tập trọng viết văn), theo Barthes và Marthe Robert, mới đưa ra lời khuyên dạy như "những ông thánh con". Người đọc sẽ cùng tham gia sáng tạo với nhà văn.

Tôi vẫn có ý thức rằng tiểu thuyết Balzac là tiểu thuyết cổ điển; nó là sáng tạo vĩ đại mà Balzac cống hiến cho loài người. Đến nay, gần hai thế kỷ đã qua, nghệ thuật tiểu thuyết đã có biết bao biến đổi: nào thế giới bên trong, nào độc thoại triền miền, nào hóa thân, tiềm thức, vô thức, huyền thoại, nào cái "chủ thể" (sujet) thay thế cho cái "cá nhân" (individu), nhân vật và cốt truyện "biến mất", vân vân. Nhiều nhà phê bình văn học lỗi lạc tầm cỡ quốc tế (Bakhtine, Barthes, Aueurbach, Genette, Marthe, Robert v.v...) đã phân tích đầy tài năng những đổi mới của nghệ thuật tiểu thuyết, từ Zola đến nay, Proust, Joyce, Kafka, Camus, Hemingway, Nathalie Sarraute, Duras... Cái chung nhất, mẫu số chung, là cái gì? Có phải là sự xuất hiện cái tôi trăm sắc ngàn hương, cái "đa ngã"? Cái thế giới này cũng nhốn nháo, xáo động, sụp đổ, trỗi dậy,đắm chìm, im lặng, dìu dặt, bụi đời, sâu thẳm, ma quái, đau khổ..., ở những ngõ hẻm, quán cà phê, ngã ba đường, hòn đảo xa..., chẳng khác gì "thế giới nhân gian" của Balzac, có điều nó nằm ở "bên trong" con người hiện đại, - đó là cái tôi, cái tôi xã hội, cái tôi tâm linh, cái tôi độc thoại, cái tôi đối thoại, cái tôi cô đơn, cái tôi lạc loài, cái tôi niệm Phật, cái tôi chủ thể...

Bên trên là cảm nhận của riêng tôi về Balzac và về tiểu thuyết.

Thế còn về "chủ nghĩa hiện thực", mà một số người thường gắn với tên tuổi Balzac. Bà Colette Becker, một chuyên gia về lý luận chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên, viết nhiều lần: "Không thể định nghĩa chủ nghĩa hiện thực", bởi vì mỗi người hiểu nó một cách, và đánh giá nó một cách (1).

Về chủ nghĩa tự nhiên (trong văn học), một giáo trình viết: "Các nhà tiểu thuyết tự nhiên chủ nghĩa thường chụp ảnh thực tế một cách vụn vặt, lấy cái cá biệt thay thế cho cái điển hình...". Và đây là lời Zola, trong Tiểu thuyết thực nghiệm tác phẩm lý luận của ông: "Lời trách móc ngu xuẩn nhằm vào chúng tôi, những nhà văn tự nhiên chủ nghĩa, rằng chúng tôi chỉ muốn là những nhà chụp ảnh. Chúng tôi đã tuyên bố rằng chúng tôi chấp nhận khí chất (tempérament) là cái biểu hiện có cá tính, nhưng vô ích, người ta vẫn dai dẳng trả lời chúng tôi bằng những lý lẽ ngu ngốc...". Maupassant thì viết trong bài Tựa tiểu thuyết Pierre và Jean của ông: "Nhà hiện thực, nếu là nghệ sĩ, sẽ tìm tòi không phải trình bày bức ảnh chụp vô vị, mà đưa ra cái nhìn đầy đủ hơn, gây xúc động hơn, có sức thuyết phục hơn chính sự thật". Zola còn trả lời đích đáng những ai bảo văn học tự nhiên chủ nghĩa là tục tằn, bẩn thỉu và nó khinh rẻ quần chúng nghèo khổ.

Về chủ nghĩa hiện thực, cũng có những hiểu lầm đáng tiếc (hoặc những quan niệm rất khác nhau) như đối với chủ nghĩa tự nhiên. Zola, Maupassant luôn luôn nói đến cá tính, "khí chất" (hay cái "tạng") của nhà văn, nó quyết định phong cách và giá trị của văn chương. Maupassant viết:"Các nhà hiện thực, chính là các nhà ảo mộng (illusionnistes). Cái thực tại, cái hiện thực là cái gì? "Tôi nhìn sự vật bằng con mắt của tôi, tôi nghe bằng tai của tôi, tôi ngửi bằng mũi của tôi..." Mỗi người, nhất là mỗi nghệ sĩ, mỗi nhà văn, vốn mang trong mình vô vàn hình ảnh về xã hội và con người trong cái vô thức tập thể và vô thức cá nhân, tích tụ từ hàng triệu năm, mỗi người ấy, mỗi nghệ sĩ ấy, sẽ in cái thực tại trước mắt vào cái khuôn sẵn có của mình; nó nổi rõ lên, ngời sáng lên trong tâm linh nhà văn, với ngôn từ của nó; và nhà văn sáng tác theo ngôn từ của riêng mình, của chủ thể mình. Đó là phong cách nhà văn, chỉ nhà văn ấy mới có; cái chủ thể ấy quyết định cái thực tại khách quan, bên ngoài. Tôi nghĩ người phê bình văn học cũng vậy; mỗi người phê bình cảm thụ thực tại của mình (tức văn bản sáng tác, đối tượng của phê bình), theo tâm linh, theo tất cả sức mạnh của con người mình, và sáng tạo siêu văn bản.

Đọc tiểu sử Balzac, tôi suy nghĩ nhiều về giờ giấc sáng tác của ông, - từ đêm khuya đến sáng hôm sau. Lúc đêm ấy, mọi "hiện thực" đã ngủ, xung quanh ông, cả nước Pháp đã nhắm mắt, có thể đang mơ. Trong bóng đêm, trong tĩnh mịch, thế giới Balzac sống dậy trong đầu óc ông, trong tâm linh ông, nhốn nháo, hoạt động, ăn nói - những bi kịch, những hài kịch, tiếng ca, màu sắc..., với những hình bóng Liêu Trai, những người khổng lồ, những gì cực thiện, những gì cực ác, những Vệ nữ hiện đại, những Sphinx (Nhân sư) hiện đại, những nhà chiêm tinh, những nhà luyện đan hiện đại, bóng dáng những người cổ đại, trung cổ hiện đại, hòa lẫn, du nhập vào nhau; đó là thời gian trong tiểu thuyết Balzac. Thế giới của ông tràn ngập ảo ảnh. Jean - Paul Sartre hỏi: Cuộc đời, cái ấy, nó là cái gì? Và ông trả lời: Là con số cộng những ngày, những tháng, những năm: Thứ hai, thứ ba, thứ tư... Tháng tư, tháng năm, tháng sáu... 1924, 1925, 1920... cái ấy, gọi là sống. Như một nhà luyện đan, Balzac biến những "hiện đại" hàng ngày, chán ngắt, vụn vặt, nhàm chán, thành một kho vàng, - kho vàng Tấn trò đời, thơ ca và kỳ ảo.

Đ.Đ.H
(123/05-99)


------------------------------
(1) Xem Colette Becker - Lire le Réalisme et le Naturalisme, Dunod, P.-1992-
(Đọc chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự nhiên)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H

  • MAI HOÀNGCẩm cù không nổi tiếng bằng một số truyện ngắn khác của Y Ban như Thư gửi mẹ Âu cơ, I am đàn bà, Đàn bà xấu thì không có quà… Không có những vấn đề hot như sex, nạo phá thai, ngoại tình… tóm lại là những sự vụ liên quan đến “chị em nhà Eva”.