Tâm sự với “Huế giữa chúng ta”

08:20 13/05/2011
NGUYỄN ĐẮC XUÂNCuốn sách non 220 trang không có phụ bản, bản đồ, tranh ảnh nào khác, giới thiệu. “Bức tranh chung về văn hoá Huế”.

Ảnh: sachxua.net

Đây là cuốn sách đầu tiên của chế độ ta viết về đề tài này. Trước kia có cuốn “Cố đô Huế” của Thái Văn Kiểm nhưng nặng về nghiên cứu, sưu tầm hơn là giới thiệu một cách khái quát tập trung vào một đề tài là văn hoá Phú Xuân. Mặc dù tác giả và nhà xuất bản trước khi cho ra đời cuốn sách này đã có chủ trương nhằm đến những người đọc bình thường và khách tham quan du lịch. Nhưng qua những vấn đề tác giả trình bày trong tác phẩm đã chứng tỏ đây là một sự tổng kết những công trình của tác giả đã nghiên cứu về Huế cho đến năm 1981.

Trước năm 1981 không lâu, Lê Văn Hảo đã được cơ quan UNESCO và Nhà nước ta yêu cầu viết hai công trình về Huế.

Cuốn thứ nhất “Huế, un chef d’oeuvre de poésie urbaine” (1) và cuốn thứ hai: “Huế, un centre culturel et touristique du Việt Nam” (2). Hai cuốn này (vì theo yêu cầu của cơ quan đặt hàng) nên tác giả phải viết nặng về kiến trúc (cuốn trước) và giới thiệu du lịch (cuốn sau). Chỉ có “Huế giữa chúng ta” vừa xuất bản mới tập trung vào đề tài văn hoá. Từ lâu tác giả đã đưa ra khái niệm về “nền văn hoá Phú Xuân”, nhưng chỉ thể hiện trong một số bài báo và một số buổi nói chuyện, qua cuốn “Huế giữa chúng ta” này lần đầu tiên Lê Văn Hảo trình bày đầy đủ về vấn đề này “Văn hoá Phú Xuân là một thực thể”. (Nếu tác giả lý giải được một cách khoa học và được công nhận thì đây là một đóng góp quan trọng cho lịch sử phát triển của văn hoá Việt Nam).

Qua mười chương sách, tác giả tập trung nói về các đề tài phong cảnh Huế và chung quanh Huế (từ đèo Ngang đến Hải Vân), Huế qua các thời kỳ lịch sử. Truyền thống văn hoá Huế, Văn học Huế, Nghệ thuật sân khấu Huế, Âm nhạc Huế, Nghệ thuật múa. Huế, Mỹ thuật Huế, Nghệ thuật sống và phong cách Huế, Huế mình đẹp nhất lòng dân (chương cuối cùng này nói về truyền thống yêu nước và cách mạng của người Huế).

Tài liệu phong phú, chính xác về mặt khoa học, sâu sắc về mặt nghệ thuật từ trước đến nay chưa có một công trình nào giới thiệu ca nhạc Huế (ngắn và gọn) có giá trị như thế. Tôi nghĩ đây là một đóng góp có ý nghĩa của Lê Văn Hảo cho phong trào ca nhạc Huế đang được phục hồi sôi nổi hiện nay.

Cuốn sách tuy chỉ có 220 trang, nhưng quả thực muốn viết nó tác giả đã phải có một kho tài liệu lớn, tích lũy trong nhiều năm; một sự đầu tư trí tuệ đáng kể. Do đó cuốn sách đã chứa đựng một lượng thông tin dồi dào, đáng tin cậy. (Tài liệu dùng tham khảo lớn hơn nhiều so với bản sách tham khảo đăng ở cuốn sách). Các sự kiện được trình bày dễ hiểu, vừa phải, nó vừa mang tính phổ thông nhưng cũng vừa mang tính nghiên cứu. Các cơ quan có trách nhiệm giới thiệu Huế với khách du lịch trong lúc chờ đợi một công trình biên khảo giới thiệu được Trung ương và tỉnh Bình Trị Thiên xác nhận chính thức thì hãy tạm sử dụng cuốn sách này như một cái cẩm nang cho những người mới vào nghề. Cuốn sách “Huế giữa chúng ta” cũng là một món quà của những người yêu Huế tặng nhau, của người Huế tặng cho những người yêu Huế.

Với giá trị của cuốn sách, với yêu cầu “khát” muốn biết Huế của độc giả trong nước và ngoài nước hiện nay, tôi tin là Nhà xuất bản phải cho tái bản cuốn sách này nhiều lần. Và để cho những lần xuất bản sau tốt hơn, tôi xin tâm sự với Nhà xuất bản và tác giả một số điểm, nếu tác giả cũng muốn sửa. Vì thế tôi tin tác giả sẽ vui lòng tham khảo những ý kiến đóng góp sau này.

1. Tác giả có nhiều tài liệu nên đã thành công trong việc liệt kê và mô tả các sự kiện văn hoá. Nhưng tác giả đã thiếu những đúc kết, những khái quát nói lên đặc điểm, bản sắc độc đáo của cái gọi là “nền văn hoá Phú Xuân” nói chung và từng ngành nghệ thuật như ca nhạc, múa, sân khấu, nghệ thuật… nói riêng, theo tôi chính nhờ cái đặc điểm bản sắc độc đáo đó (khác với văn hoá Thăng Long) mới có thể nói có hay không có “nền văn hoá Phú Xuân”. Những nơi có nhiều sự kiện văn hoá nhưng không có bản sắc riêng thì nó chỉ có thể là một trung tâm văn hoá chứ không thể có một nền văn hoá. Trái lại có những nơi có ít sự kiện thôi, nhưng nó có bản sắc độc đáo, ở đó vẫn có thể có một nền văn hoá riêng. So với văn hoá Đại Việt, văn hoá Chăm-pa xưa có ít sự kiện hơn, thành tựu cũng nhỏ nhưng nó không thể trộn lẫn vào được với văn hoá Đại Việt. Và vì thế mà đã có một nền văn hoá Chăm-pa. Những tinh túy của văn hoá Chăm-pa đã được văn hoá Việt Nam phát triển ở Phú Xuân rút tỉa khá nhiều. Vì thế có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng văn hoá Việt Nam ở Huế là một sự tổng hợp nhuần nhuyễn hai nền văn hoá Việt - Chăm. Và chính đó là một đặc điểm của văn hoá Việt Nam ở Huế.

Cũng nhờ những khái quát về đặc điểm, bản sắc độc đáo của văn hoá Phú Xuân ta mới có thể nêu được vị trí của văn hoá Việt Nam phát triển ở Phú Xuân như thế nào trong lịch sử phát triển chung của văn hoá dân tộc. (Vấn đề này có dịp sẽ trao đổi thêm với tác giả trong một bài báo khác).

2. Về thứ tự các chương trong cuốn sách chưa hợp lý. Nghệ thuật sân khấu Việt Nam (trong đó có hát bội) là một nghệ thuật sử dụng một lần đến bốn bộ môn khác gồm Mỹ thuật (y phục, vẻ mặt, hình dáng các động tác), âm nhạc (dân ca), múa (vũ điệu cộng với âm nhạc) và văn học (kịch bản). Thế mà tác giả lại trình bày sân khấu trước làm cho người đọc khó theo dõi, thiếu hệ thống đâm ra khó hiểu. Và theo tôi có thể bỏ chương truyền thống văn hoá Huế (chương 3). Chương này chỉ là một bản tóm tắt những chương sau mà thôi. Nếu có những chi tiết các chương sau chưa nói tới thì có thể chèn thêm chứ không nên để riêng ra một chương.

3. Tác giả không phân biệt văn học nghệ thuật lấy đề tài Huế với văn học nghệ thuật Huế. Văn học nghệ thuật lấy đề tài Huế chưa chắc đã là văn học Huế (ví dụ như trước đây người Pháp đã viết nhiều cuốn sách về Huế nhưng những thứ đó đâu có thuộc văn học nghệ thuật Huế). Trái lại có những tác phẩm không hề nói đến Huế nhưng lại rất Huế (ví dụ như thơ Tố Hữu viết về Việt Nam và thế giới). Huế hay không là ở tình tự Huế, ngôn ngữ và cách nói riêng của Huế. Tức là tính cách bản sắc riêng của văn học nghệ thuật Huế. Bản tuồng “Nghêu Sò Ốc Hến” không hề nói một địa danh nào của Huế, nhưng xem qua ai cũng nói nó là Huế. Trong “Huế giữa chúng ta” tác giả đã kê vào nhiều sự kiện văn hoá ít có “tính Huế”.

4. Chương “Huế qua các thời kỳ lịch sử”, tác giả trình bày khái quát một cách chung chung có thể đưa vào bất cứ một cuốn sách nào. Đưa chương đó làm gì nếu không phải là để giúp cho người đọc hiểu được sự phát triển của văn hoá Huế với những nét độc đáo của nó?

5. Tác giả đã bỏ quên nhiều sự kiện điển hình độc đáo trong quá trình phát triển văn hoá Huế: Thơ văn Ông già Bến Ngự, Báo “Tiếng Dân” - tờ báo của dân đầu tiên ở Trung Kỳ (tức là không phải của Nhà nước thực dân), những nhà thơ tiêu biểu của Huế như cụ Ưng Bình, nhà thơ châm biếm Nguyễn Khoa Vy, phong trào thơ mới với những tác giả nổi tiếng Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Phan Văn Dật, Xuân Tâm… Tác phẩm giới thiệu phong trào thơ mới đầu tiên ở Việt Nam của Hoài Thanh “Thi nhân Việt Nam” cũng được viết và in ở Huế. Nhưng tiếc nhất là “Huế giữa chúng ta” mà thiếu đi phong trào đấu tranh yêu nước ở các đô thị miền Nam của tuổi trẻ Huế. Qua phong trào nầy tính chất văn hoá của Huế được bộc lộ rõ nhất. Ngày nay đọc lại những báo “Ngày mai”, “Mặt trận văn hoá Dân tộc miền Trung”, thơ văn của Trần Quang Long chúng ta vẫn còn thấy thích thú. Cái sức nặng của cái gọi là “Văn hoá Huế” đương đại không những nó làm cho nhẹ bớt cái chất “cổ” của văn hoá truyền thống mà nó còn là một thực thể chứng minh cho sự thành công trong việc phát huy truyền thống.

6. Trong việc sử dụng tài liệu tham khảo xin góp với tác giả hai ý kiến. Trong chương viết về âm nhạc tác giả đã tham khảo khá nhiều trong cuốn La Musique Vietnamienne Traditionnelle (P.U.F. Paris 1962) của Trần Văn Khê và cuốn “Những vũ khúc…” của hai cha con ông Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề, nhưng tác giả không nêu trong phần viết cũng như trong phần sách tham khảo. Ý kiến thứ hai: không nên nêu tham khảo tác phẩm của chính mình nếu vấn đề mình đề cập đến có thể lý giải được trực tiếp.

7. Nhân đây tôi cũng xin có vài điều thắc mắc thêm với Nhà xuất bản: Bản thảo cuốn “Huế giữa chúng ta” đã nằm trong kế hoạch xuất bản ngót ba năm nhưng tại sao sách viết về văn hoá Huế như thế lại không có một tấm bản đồ, không có một tranh ảnh nào minh họa? Vì thiếu những phụ bản nầy mà nội dung cuốn sách mất đi một nửa hiệu quả. Việc in ấn có nhiều sai sót nhưng không rõ vì lý do gì không có bản đính chính! Người đọc mong những lần xuất bản sau phải bổ sung phần phụ bản quan trọng ấy và có phần đính chính cẩn thận.

***

Tôi cũng nghĩ, đối với một tác giả bình thường nào đó thì người đọc được đọc một cuốn như “Huế giữa chúng ta” họ đã thích thú thỏa mãn lắm rồi và không đòi hỏi gì nữa cả. Nhưng đối với giáo sư Lê Văn Hảo, với khả năng đã sẵn có, với tài liệu dồi dào trong tay, với những bạn bè đồng điệu đông đảo của giáo sư, người ta muốn được giáo sư có những công trình lớn hơn và đầy đủ hơn. (Không có nghĩa là có độ dày nhiều trang hơn). Trong lúc chờ đợi công trình ấy, cuốn “Huế giữa chúng ta” vẫn là một món quà tinh thần chưa từng có đối với mảnh đất có truyền thống văn hoá lâu đời này.

Huế, ngày 20-11-1984
N.Đ.X.
(15/10-85)


-----------
1. Nxb Sudestasie, Paris 1982.
2. Nxb UNESCO Paris 1982.








Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.

  • NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.

  • LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)

  • LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)

  • NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.

  • LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.

  • KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.

  • NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.

  • HỒNG NHU    (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.

  • NGUYỄN HỮU QUÝ         (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.

  • LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.

  • MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.

  • SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.

  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!