Bài viết này chỉ bàn đến những thay đổi có tính chất cách mạng của công nghệ thông tin đã ảnh hưởng đến sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật như thế nào? Điều đáng nói ở đây là, tất cả những cái được coi là mới trong thực tiễn nghệ thuật ở Việt như đã nêu ở trên đều không hoặc chưa được dạy trong các trường nghệ thuật chính thống của ta. Vậy những tri thức ấy, những quan điểm và kỹ năng sáng tạo nghệ thuật ấy được học từ đâu nếu không phải từ Internet???
1. Việc sử dụng các phương tiện truyền thông mới ngày càng trở nên phổ biến là một chỉ báo của một quá trình cá nhân hoá (individualization), theo đó các cá nhân trong xã hội đều mong muốn được thể hiện cái tôi của mình, được tự do trong suy nghĩ, sinh hoạt và hành động. Chính quá trình cá nhân hoá đã thay đổi cơ bản các hình thức và cả phương thức sinh hoạt văn hoá của người dân hiện nay: Mỗi cá nhân đều có sự lựa chọn hay từ chối những hàng hoá văn hoá (vốn rất phong phú, đa dạng) chứ không phải kiểu tiêu thụ hàng hoá là sản phẩm của thời kỳ thông tin một chiều, áp đặt của các phương tiện và quan điểm truyền thông truyền thống. Hơn thế nữa, sự sáng tạo văn hóa, nghệ thuật không chỉ là đặc quyền của riêng ai, về nguyên tắc, hiện nay nó là quyền và cơ hội của tất cả mọi cá nhân.
Không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà năm 2007, Tạp chí Time của Mỹ đã bình chọn nhân vật xuất sắc nhất trong năm, và lần đầu tiên, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông mới đã được thể hiện thông qua việc nhân vật được bình chọn là YOU (bạn).
Trước hết, quá trình cá nhân hóa mạnh mẽ đã làm suy yếu đi sức mạnh của những biểu tượng truyền thống (những biểu tượng từ lĩnh vực chính trị đến nghệ thuật). Trước kia, mỗi một xã hội, mỗi một dân tộc thường duy trì những giá trị và chuẩn mực văn hóa của mình, trong đó có nền nghệ thuật, theo những biểu tượng riêng. Những biểu tượng ấy với tư cách là các cấu trúc xã hội không chỉ thống nhất tâm trí và hành động của các cá nhân trong một xã hội nhất định (theo cách đồng cảm- một thuật ngữ khá quan trọng trong xã hội học), mà nó còn như là một áp lực xã hội có tính chất mệnh lệnh. Điều đó dẫn đến một hệ quả tất yếu là: Những ai không tuân thủ “mệnh lệnh” của những biểu tượng đó đều bị coi là “thiểu số”, là “lệch chuẩn”.
Chính hệ biểu tượng ấy, hệ giá trị ấy đã trở thành hệ quy chiếu thẩm mỹ cho các hoạt động sáng tạo và tiêu dùng nghệ thuật. Điều này giải thích tại sao chúng ta thường phân biệt các tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao - thấp, bác học - bình dân… phân biệt thị hiếu lành mạnh với thấp hèn, hoặc thị hiếu cao, tinh tế với thị hiếu thấp, dung tục...
Khi nền kinh tế thị trường chiếm vị trí ưu thắng cùng với khi chủ nghĩa cá nhân đã hình thành và phát triển thì những sở thích cá nhân, những thị hiếu cá nhân nhằm thỏa mãn những nhu cầu cá nhân được đặt lên hàng đầu: tôi thích gì tôi sáng tạo hay tiêu dùng cái đó không cần phải quan tâm nhiều đến việc xã hội có thừa nhận nó hay không Điều đó dẫn đến một tâm lý khá phổ biến trong xã hội tiêu dùng hiện đại là “không đụng hàng”, là dùng ”hàng độc”... Thậm chí điều này còn trở thành một giá trị thẩm mỹ trong xã hội hiện đại: Một người sẽ được coi là “tỉnh” khi các sản phẩm mà anh ta tiêu dùng có tính cá nhân hóa cao, ngược lại sẽ bị coi là “quê”. Giá trị này lấn át cả các giá trị chính trị hay kinh tế (nó không phụ thuộc nhiều vào việc đắt hay rẻ, có ý nghĩa lịch sử hay không, có ích lợi hay không). Xuất phát từ thực tiễn này của xã hội, trong nghệ thuật đương đại đã có những thực tiễn mới: tất cả những phân loại theo kiểu cao - thấp, bác học - bình dân, truyền thống- hiện đại trong nghệ thuật dần dần bị bác bỏ, thậm chí những ranh giới giữa nghệ thuật với đời sống thường ngày cũng bị xóa nhòa.
Chúng ta thấy rất rõ xu hướng cá nhân hóa trong sáng tạo và tiếp nhận, tiêu dùng nghệ thuật đương đại. Mọi tác phẩm nghệ thuật dường như đều xuất phát từ tình cảm, kinh nghiệm cá nhân của người nghệ sỹ hoặc hướng tới quá trình tiếp nhận đa nghĩa, bởi sự tiếp nhận- theo quan điểm mỹ học mới- tuỳ thuộc vào nền văn hoá mà các cá nhân sở thuộc và tuỳ thuộc vào khả năng phản ánh hiện thực thông qua hành động giải trình ngôn ngữ (discourse) của chúng. Ngoài ra, những nhà lý luận nghệ thuật còn đưa ra nhiều thuật ngữ để minh họa, diễn giải cho thực tiễn nghệ thuật mới này. Đó là những thuật ngữ như “liên văn bản”, hay như “cái chết của tác giả”, hay “trò chơi ngôn ngữ”.v.v..
Trong lĩnh vực nghệ thuật, luận điểm này tuyệt đối hoá vai trò cá thể trong quá trình sáng tạo- tiếp nhận nghệ thuật- Đó hoàn toàn là một quá trình chủ quan hoá. Nó hoàn toàn đối lập với quan điểm của chủ nghĩa hiện đại, coi tác phẩm là trung tâm và mang tính khách quan, mà người tiếp nhận nó phải hướng đến những giá trị được coi là khách quan đó.
Cũng cần phải thêm rằng, chính truyền thông mới tạo điều kiện cho cách tiếp nhận nghệ thuật mới. Thời nay, thông qua Internet các tác phẩm có thể đi thẳng, trực tiếp đến người tiếp nhận mà không cần phải qua bất kỳ một trung gian nào (như giới thiệu, phê bình, kiểm duyệt). Như thế, người tiếp nhận nghệ thuật được tôn trọng tuyệt đối, họ có thể cảm thụ và bình giá tác tác phẩm bằng chính cảm quan của mình, bằng chính vốn sống và kinh nghiệm sống của mình... Điều này cũng giải thích cho tính đa nghĩa và đa chức năng của nghệ thuật đương đại.
2. Mặt khác, chính nhờ quá trình cá nhân hoá này, các cá nhân có điều kiện kết nối với những người khác có cùng sở thích, thị hiếu cũng như những quan điểm chính trị, xã hội và thậm chí cả những liên kết kinh tế. Những liên kết này kiến tạo ra những cộng đồng đặc biệt (các nhà nghiên cứu gọi là cộng đồng văn bản). Nếu như ở thời các phương tiện truyền thông đại chúng cũ, các thông tin được truyền ra mang tính một chiều- các cá nhân không có cơ hội tương tác, đặc biệt là những nhóm xã hội “ở phía dưới” hay những nhóm “thiểu số”; thì nay, nhờ có các phương tiện truyền thông mới, các nhóm thiểu số được “trao quyền”“tiếng nói” lớn hơn đối với cộng đồng. Những kết nối ngược chiều này (mặc dù sự kết nối chỉ ở dạng cộng đồng văn bản) đã tạo ra những sức mạnh thực tế làm yếu đi sức mạnh của “vòng xoáy của sự im lặng” (spiral of silence)7. Có thể nói rằng, chính các phương tiện truyền thông mới đã thúc đẩy tích cực vào quá trình dân chủ hoá xã hội. Nhờ đó, sinh hoạt xã hội trở nên dân chủ hơn, đa chiều hơn và đời sống văn hoá cũng trở nên phong phú và đa dạng hơn, không còn mang tính một chiều nữa.
Các phương tiện truyền thông mới ra đời đã giúp phá bỏ “vòng xoáy của sự im lặng” trong đời sống nghệ thuật ở Việt . Giờ đây, hầu như ai cũng có cơ hội nói những tâm tư, nguyện vọng và ý tưởng của mình bất chấp ý kiến của họ có được xã hội chấp nhận hay không. Nếu không được đăng tải trên những phương tiện truyền thông chính thống thì giờ đây mỗi người đều có thể tự viết blog hay dùng YouTube để chia sẻ các hình ảnh riêng tư, những ý tưởng độc đáo của mình. Dần dần, những cộng đồng mạng được hình thành và nó có sức mạnh không kém gì những cộng đồng khác trong xã hội. Rất nhiều ví dụ trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy, nhiều khi những ý kiến thiểu số trở nên thắng thế trong một bối cảnh xã hội ngày càng cởi mở hơn đối với những ý kiến khác biệt. Các phương tiện truyền thông đại chúng giờ đây đã tự nguyện hay “bị ép buộc” đăng tải các ý kiến cá nhân để thoả mãn xu hướng chung toàn cầu.
3. Chính quá trình hóa cá nhân mạnh mẽ ấy trong xã hội đương đại đã trở thành cơ sở để các nhà tư tưởng xem xét lại toàn bộ hệ thống giá trị đã được coi là “thiên đình”, “là bất di bất dịch”. Những “grand narative” (đại luận thuyết) với tư cách là “chân lý khách quan” dần dần không còn chỗ đứng vững chắc nữa và chen vào đó là những “petit narative” (tiểu sự) của giới bình dân, của các nhóm thiểu số. Trong lĩnh vực nghệ thuật cũng vậy, những tiểu tự sự, những lý lẽ giải thích cho những hành động nhỏ bé, những biến cố có tính chất địa phương thay vì những khái niệm lớn có tính cách bao quát và toàn thể... được cổ súy. Những chủ đề, nội dung của các tác phẩm nghệ thuật thường được nhìn dưới góc độ của hoàn cảnh tạm thời, ngẫu nhiên, không tuyên xưng tính thống nhất toàn thể, tính ổn định, tính hợp lý hay sự thật khách quan.
Trước đây, những nghệ thuật được coi là chính thống ở ta (như nhạc giao hưởng thính phòng, như nghệ thuật dân tộc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, điện ảnh theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa...) được Nhà nước bao cấp, được giới đại học và giới phê bình tuyên xưng và dĩ nhiên nó trở thành những giá trị thẩm mỹ mà các cá thể trong xã hội phải hướng tới. Và quả thật, trong một thời kỳ khá dài, chính đại đa số công chúng nghệ thuật ở ta (chứ không chỉ là giới lãnh đạo hay giới phê bình nghệ thuật thôi đâu) đã “tự giác” tư duy và tiếp nhận theo lý tưởng thẩm mỹ đó. Ngày nay, thực tiễn nghệ thuật đã đổi khác, công chúng- với gian hàng về tri thức lý luận và nghệ thuật khổng lồ được trình ra ở Internet – đã tự chọn cho mình lý tưởng thẩm mỹ riêng của mình mà không bị đóng khung bởi những gì xã hội Việt Nam cung cấp và áp đặt nữa. Rõ ràng, việc hiện nay Nhà nước ta vẫn chỉ tập trung vào bao cấp và khuyến khích các hoạt động nghệ thuật chính thống mà không khuyến khích, hỗ trợ cho các loại hình nghệ thuật mới là một sự chậm trễ đáng tiếc. Bởi trên thực tế, những tổ chức nghệ thuật của nước ngoài tại Việt Nam (như Viện Goethe, Hội đồng Anh, Trung tâm Văn hóa Pháp- Việt, hoặc một số đại sứ quán Đan Mạch, Thụy Điển...) đã khá nhanh nhạy và thu hút được giới nghệ sỹ trẻ hội nhập với những trào lưu nghệ thuật của thế giới và điều quan trọng là hiệu quả thực tế của những hoạt động này cao hơn so với những hoạt động nghệ thuật của ta (kể cả hiệu quả chính trị, ví dụ như xây dựng hình ảnh văn hóa và con người Việt Nam trong thời đại mới).
4. Các phương tiện truyền thông mới ra đời đã sáng tạo ra một thế giới nữa cho loài người: đó là một thế giới ảo mà con người có thể sống và can thiệp như một thế giới thật. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lối tư duy, đến lựa chọn các chủ đề, đến thủ pháp kỹ thuật trong sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật. Đó chính là một khác biệt lớn khi so nghệ thuật hậu hiện đại với tất cả những trường phái nghệ thuật trước đó.
Như vậy, ngay cả ở Việt , thực tiễn nghệ thuật cũng đã thay đổi và điều đó đòi hỏi phải có một sự lột xác về mặt lý luận sao cho tương thích.
Trước hết là phải xác định lại nội hàm và tính chất của khái niệm nghệ thuật. Dĩ nhiên hiện nay sự đồng nhất nghệ thuật với tư tưởng, với chính trị là đã quá lỗi thời và ai cũng nhận thấy điều đó. Nhưng hiện nay còn khá nhiều người trong giới nghệ thuật ở ta còn bảo lưu khái niệm nghệ thuật truyền thống, trong đó nghệ thuật bị đồng nhất với tác phẩm nghệ thuật (quan điểm này cho rằng tác phẩm nghệ thuật là trung tâm, là những giá trị đã được khách thể hóa và ai cũng cần phải nhận ra những giá trị đó). Hạn chế của khái niệm nghệ thuật này chính là ở chỗ: Nó không phản ánh được tính quá trình của sản xuất- tiêu thụ nghệ thuật, không phản ánh được tính đa nghĩa và đa chức năng của nghệ thuật, không phản ánh được đối tượng thẩm mỹ đa dạng (không chỉ là cái đẹp) của nghệ thuật, không phản ánh được nhưng quan hệ không mang tính thẩm mỹ trong cấu trúc tổng thể của nghệ thuật và đặc biệt nó luôn phụ thuộc vào thang giá trị của xã hội đương thời. Tôi luôn tin rằng, khi lý luận về nghệ thuật phát triển thì thực tiễn nghệ thuật sẽ phát triển theo và nếu ngược lại thì nghệ thuật sẽ bị kìm hãm, què quặt./.
Theo TS Bùi Quang Thắng ( Tia Sáng)
|
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.
LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.
NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.
AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.
TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!
PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.