Bài viết này chỉ bàn đến những thay đổi có tính chất cách mạng của công nghệ thông tin đã ảnh hưởng đến sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật như thế nào? Điều đáng nói ở đây là, tất cả những cái được coi là mới trong thực tiễn nghệ thuật ở Việt như đã nêu ở trên đều không hoặc chưa được dạy trong các trường nghệ thuật chính thống của ta. Vậy những tri thức ấy, những quan điểm và kỹ năng sáng tạo nghệ thuật ấy được học từ đâu nếu không phải từ Internet???
1. Việc sử dụng các phương tiện truyền thông mới ngày càng trở nên phổ biến là một chỉ báo của một quá trình cá nhân hoá (individualization), theo đó các cá nhân trong xã hội đều mong muốn được thể hiện cái tôi của mình, được tự do trong suy nghĩ, sinh hoạt và hành động. Chính quá trình cá nhân hoá đã thay đổi cơ bản các hình thức và cả phương thức sinh hoạt văn hoá của người dân hiện nay: Mỗi cá nhân đều có sự lựa chọn hay từ chối những hàng hoá văn hoá (vốn rất phong phú, đa dạng) chứ không phải kiểu tiêu thụ hàng hoá là sản phẩm của thời kỳ thông tin một chiều, áp đặt của các phương tiện và quan điểm truyền thông truyền thống. Hơn thế nữa, sự sáng tạo văn hóa, nghệ thuật không chỉ là đặc quyền của riêng ai, về nguyên tắc, hiện nay nó là quyền và cơ hội của tất cả mọi cá nhân.
Không phải tình cờ hay ngẫu nhiên mà năm 2007, Tạp chí Time của Mỹ đã bình chọn nhân vật xuất sắc nhất trong năm, và lần đầu tiên, ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông mới đã được thể hiện thông qua việc nhân vật được bình chọn là YOU (bạn).
Trước hết, quá trình cá nhân hóa mạnh mẽ đã làm suy yếu đi sức mạnh của những biểu tượng truyền thống (những biểu tượng từ lĩnh vực chính trị đến nghệ thuật). Trước kia, mỗi một xã hội, mỗi một dân tộc thường duy trì những giá trị và chuẩn mực văn hóa của mình, trong đó có nền nghệ thuật, theo những biểu tượng riêng. Những biểu tượng ấy với tư cách là các cấu trúc xã hội không chỉ thống nhất tâm trí và hành động của các cá nhân trong một xã hội nhất định (theo cách đồng cảm- một thuật ngữ khá quan trọng trong xã hội học), mà nó còn như là một áp lực xã hội có tính chất mệnh lệnh. Điều đó dẫn đến một hệ quả tất yếu là: Những ai không tuân thủ “mệnh lệnh” của những biểu tượng đó đều bị coi là “thiểu số”, là “lệch chuẩn”.
Chính hệ biểu tượng ấy, hệ giá trị ấy đã trở thành hệ quy chiếu thẩm mỹ cho các hoạt động sáng tạo và tiêu dùng nghệ thuật. Điều này giải thích tại sao chúng ta thường phân biệt các tác phẩm có chất lượng nghệ thuật cao - thấp, bác học - bình dân… phân biệt thị hiếu lành mạnh với thấp hèn, hoặc thị hiếu cao, tinh tế với thị hiếu thấp, dung tục...
Khi nền kinh tế thị trường chiếm vị trí ưu thắng cùng với khi chủ nghĩa cá nhân đã hình thành và phát triển thì những sở thích cá nhân, những thị hiếu cá nhân nhằm thỏa mãn những nhu cầu cá nhân được đặt lên hàng đầu: tôi thích gì tôi sáng tạo hay tiêu dùng cái đó không cần phải quan tâm nhiều đến việc xã hội có thừa nhận nó hay không Điều đó dẫn đến một tâm lý khá phổ biến trong xã hội tiêu dùng hiện đại là “không đụng hàng”, là dùng ”hàng độc”... Thậm chí điều này còn trở thành một giá trị thẩm mỹ trong xã hội hiện đại: Một người sẽ được coi là “tỉnh” khi các sản phẩm mà anh ta tiêu dùng có tính cá nhân hóa cao, ngược lại sẽ bị coi là “quê”. Giá trị này lấn át cả các giá trị chính trị hay kinh tế (nó không phụ thuộc nhiều vào việc đắt hay rẻ, có ý nghĩa lịch sử hay không, có ích lợi hay không). Xuất phát từ thực tiễn này của xã hội, trong nghệ thuật đương đại đã có những thực tiễn mới: tất cả những phân loại theo kiểu cao - thấp, bác học - bình dân, truyền thống- hiện đại trong nghệ thuật dần dần bị bác bỏ, thậm chí những ranh giới giữa nghệ thuật với đời sống thường ngày cũng bị xóa nhòa.
Chúng ta thấy rất rõ xu hướng cá nhân hóa trong sáng tạo và tiếp nhận, tiêu dùng nghệ thuật đương đại. Mọi tác phẩm nghệ thuật dường như đều xuất phát từ tình cảm, kinh nghiệm cá nhân của người nghệ sỹ hoặc hướng tới quá trình tiếp nhận đa nghĩa, bởi sự tiếp nhận- theo quan điểm mỹ học mới- tuỳ thuộc vào nền văn hoá mà các cá nhân sở thuộc và tuỳ thuộc vào khả năng phản ánh hiện thực thông qua hành động giải trình ngôn ngữ (discourse) của chúng. Ngoài ra, những nhà lý luận nghệ thuật còn đưa ra nhiều thuật ngữ để minh họa, diễn giải cho thực tiễn nghệ thuật mới này. Đó là những thuật ngữ như “liên văn bản”, hay như “cái chết của tác giả”, hay “trò chơi ngôn ngữ”.v.v..
Trong lĩnh vực nghệ thuật, luận điểm này tuyệt đối hoá vai trò cá thể trong quá trình sáng tạo- tiếp nhận nghệ thuật- Đó hoàn toàn là một quá trình chủ quan hoá. Nó hoàn toàn đối lập với quan điểm của chủ nghĩa hiện đại, coi tác phẩm là trung tâm và mang tính khách quan, mà người tiếp nhận nó phải hướng đến những giá trị được coi là khách quan đó.
Cũng cần phải thêm rằng, chính truyền thông mới tạo điều kiện cho cách tiếp nhận nghệ thuật mới. Thời nay, thông qua Internet các tác phẩm có thể đi thẳng, trực tiếp đến người tiếp nhận mà không cần phải qua bất kỳ một trung gian nào (như giới thiệu, phê bình, kiểm duyệt). Như thế, người tiếp nhận nghệ thuật được tôn trọng tuyệt đối, họ có thể cảm thụ và bình giá tác tác phẩm bằng chính cảm quan của mình, bằng chính vốn sống và kinh nghiệm sống của mình... Điều này cũng giải thích cho tính đa nghĩa và đa chức năng của nghệ thuật đương đại.
2. Mặt khác, chính nhờ quá trình cá nhân hoá này, các cá nhân có điều kiện kết nối với những người khác có cùng sở thích, thị hiếu cũng như những quan điểm chính trị, xã hội và thậm chí cả những liên kết kinh tế. Những liên kết này kiến tạo ra những cộng đồng đặc biệt (các nhà nghiên cứu gọi là cộng đồng văn bản). Nếu như ở thời các phương tiện truyền thông đại chúng cũ, các thông tin được truyền ra mang tính một chiều- các cá nhân không có cơ hội tương tác, đặc biệt là những nhóm xã hội “ở phía dưới” hay những nhóm “thiểu số”; thì nay, nhờ có các phương tiện truyền thông mới, các nhóm thiểu số được “trao quyền”“tiếng nói” lớn hơn đối với cộng đồng. Những kết nối ngược chiều này (mặc dù sự kết nối chỉ ở dạng cộng đồng văn bản) đã tạo ra những sức mạnh thực tế làm yếu đi sức mạnh của “vòng xoáy của sự im lặng” (spiral of silence)7. Có thể nói rằng, chính các phương tiện truyền thông mới đã thúc đẩy tích cực vào quá trình dân chủ hoá xã hội. Nhờ đó, sinh hoạt xã hội trở nên dân chủ hơn, đa chiều hơn và đời sống văn hoá cũng trở nên phong phú và đa dạng hơn, không còn mang tính một chiều nữa.
Các phương tiện truyền thông mới ra đời đã giúp phá bỏ “vòng xoáy của sự im lặng” trong đời sống nghệ thuật ở Việt . Giờ đây, hầu như ai cũng có cơ hội nói những tâm tư, nguyện vọng và ý tưởng của mình bất chấp ý kiến của họ có được xã hội chấp nhận hay không. Nếu không được đăng tải trên những phương tiện truyền thông chính thống thì giờ đây mỗi người đều có thể tự viết blog hay dùng YouTube để chia sẻ các hình ảnh riêng tư, những ý tưởng độc đáo của mình. Dần dần, những cộng đồng mạng được hình thành và nó có sức mạnh không kém gì những cộng đồng khác trong xã hội. Rất nhiều ví dụ trên thế giới và ở Việt Nam cho thấy, nhiều khi những ý kiến thiểu số trở nên thắng thế trong một bối cảnh xã hội ngày càng cởi mở hơn đối với những ý kiến khác biệt. Các phương tiện truyền thông đại chúng giờ đây đã tự nguyện hay “bị ép buộc” đăng tải các ý kiến cá nhân để thoả mãn xu hướng chung toàn cầu.
3. Chính quá trình hóa cá nhân mạnh mẽ ấy trong xã hội đương đại đã trở thành cơ sở để các nhà tư tưởng xem xét lại toàn bộ hệ thống giá trị đã được coi là “thiên đình”, “là bất di bất dịch”. Những “grand narative” (đại luận thuyết) với tư cách là “chân lý khách quan” dần dần không còn chỗ đứng vững chắc nữa và chen vào đó là những “petit narative” (tiểu sự) của giới bình dân, của các nhóm thiểu số. Trong lĩnh vực nghệ thuật cũng vậy, những tiểu tự sự, những lý lẽ giải thích cho những hành động nhỏ bé, những biến cố có tính chất địa phương thay vì những khái niệm lớn có tính cách bao quát và toàn thể... được cổ súy. Những chủ đề, nội dung của các tác phẩm nghệ thuật thường được nhìn dưới góc độ của hoàn cảnh tạm thời, ngẫu nhiên, không tuyên xưng tính thống nhất toàn thể, tính ổn định, tính hợp lý hay sự thật khách quan.
Trước đây, những nghệ thuật được coi là chính thống ở ta (như nhạc giao hưởng thính phòng, như nghệ thuật dân tộc, mỹ thuật, nhiếp ảnh, điện ảnh theo chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa...) được Nhà nước bao cấp, được giới đại học và giới phê bình tuyên xưng và dĩ nhiên nó trở thành những giá trị thẩm mỹ mà các cá thể trong xã hội phải hướng tới. Và quả thật, trong một thời kỳ khá dài, chính đại đa số công chúng nghệ thuật ở ta (chứ không chỉ là giới lãnh đạo hay giới phê bình nghệ thuật thôi đâu) đã “tự giác” tư duy và tiếp nhận theo lý tưởng thẩm mỹ đó. Ngày nay, thực tiễn nghệ thuật đã đổi khác, công chúng- với gian hàng về tri thức lý luận và nghệ thuật khổng lồ được trình ra ở Internet – đã tự chọn cho mình lý tưởng thẩm mỹ riêng của mình mà không bị đóng khung bởi những gì xã hội Việt Nam cung cấp và áp đặt nữa. Rõ ràng, việc hiện nay Nhà nước ta vẫn chỉ tập trung vào bao cấp và khuyến khích các hoạt động nghệ thuật chính thống mà không khuyến khích, hỗ trợ cho các loại hình nghệ thuật mới là một sự chậm trễ đáng tiếc. Bởi trên thực tế, những tổ chức nghệ thuật của nước ngoài tại Việt Nam (như Viện Goethe, Hội đồng Anh, Trung tâm Văn hóa Pháp- Việt, hoặc một số đại sứ quán Đan Mạch, Thụy Điển...) đã khá nhanh nhạy và thu hút được giới nghệ sỹ trẻ hội nhập với những trào lưu nghệ thuật của thế giới và điều quan trọng là hiệu quả thực tế của những hoạt động này cao hơn so với những hoạt động nghệ thuật của ta (kể cả hiệu quả chính trị, ví dụ như xây dựng hình ảnh văn hóa và con người Việt Nam trong thời đại mới).
4. Các phương tiện truyền thông mới ra đời đã sáng tạo ra một thế giới nữa cho loài người: đó là một thế giới ảo mà con người có thể sống và can thiệp như một thế giới thật. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến lối tư duy, đến lựa chọn các chủ đề, đến thủ pháp kỹ thuật trong sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật. Đó chính là một khác biệt lớn khi so nghệ thuật hậu hiện đại với tất cả những trường phái nghệ thuật trước đó.
Như vậy, ngay cả ở Việt , thực tiễn nghệ thuật cũng đã thay đổi và điều đó đòi hỏi phải có một sự lột xác về mặt lý luận sao cho tương thích.
Trước hết là phải xác định lại nội hàm và tính chất của khái niệm nghệ thuật. Dĩ nhiên hiện nay sự đồng nhất nghệ thuật với tư tưởng, với chính trị là đã quá lỗi thời và ai cũng nhận thấy điều đó. Nhưng hiện nay còn khá nhiều người trong giới nghệ thuật ở ta còn bảo lưu khái niệm nghệ thuật truyền thống, trong đó nghệ thuật bị đồng nhất với tác phẩm nghệ thuật (quan điểm này cho rằng tác phẩm nghệ thuật là trung tâm, là những giá trị đã được khách thể hóa và ai cũng cần phải nhận ra những giá trị đó). Hạn chế của khái niệm nghệ thuật này chính là ở chỗ: Nó không phản ánh được tính quá trình của sản xuất- tiêu thụ nghệ thuật, không phản ánh được tính đa nghĩa và đa chức năng của nghệ thuật, không phản ánh được đối tượng thẩm mỹ đa dạng (không chỉ là cái đẹp) của nghệ thuật, không phản ánh được nhưng quan hệ không mang tính thẩm mỹ trong cấu trúc tổng thể của nghệ thuật và đặc biệt nó luôn phụ thuộc vào thang giá trị của xã hội đương thời. Tôi luôn tin rằng, khi lý luận về nghệ thuật phát triển thì thực tiễn nghệ thuật sẽ phát triển theo và nếu ngược lại thì nghệ thuật sẽ bị kìm hãm, què quặt./.
Theo TS Bùi Quang Thắng ( Tia Sáng)
|
Trong lời Nhỏ to... cuối sách Thi nhân Việt (1942), Hoài Thanh - Hoài Chân viết: “Tôi đã đọc một vạn bài thơ và trong số ấy có non một vạn bài dở. Nếu làm xong quyển sách này, mà không chê chán vì thơ, ấy là điều tôi rất mong mỏi”.
Gần đây, đọc một vài truyện ngắn trên tạp chí Sông Hương, tôi vô cùng cảm động. Trước số phận của các nhân vật, tôi muốn nói lên những suy nghĩ của mình và chỉ mong được coi đây là lời trò chuyện của người được "nhận và cho":
Ông Eđuar Điujacđen là một nhà thơ có tài và có thể nói là được hâm mộ trong số các nhà thơ thuộc thế hệ già - người vẫn giữ được tình cảm và sự khâm phục cuồng nhiệt của lớp trẻ, đã mở đầu một cuộc thảo luận về thơ.
Việc mở rộng phong trào giải phóng tư tưởng trên văn đàn thời kỳ mới, lãnh vực phê bình và lý luận văn nghệ đã xuất hiện cục diện vô cùng sống động.
"Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động" (Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trường ĐHTH TP.HCM, 1995, trang 19).
Phê bình văn học là giải minh cho văn chương. Văn chương hay hoặc dở, giản đơn hay phức tạp, nó được thiết lập trên thi pháp này hay thi pháp khác, thể loại này hay thể loại khác, thời này hay thời khác v.v... đều phải được làm sáng tỏ bằng những lập luận khoa học chứ không phải bằng cảm tính của người phê bình.
LTS: Sau khi Sông Hương đăng bài “Khủng hoảng ngay trong nhận thức và niềm tin đi tìm lối thoát cuộc khủng hoảng văn học” của nhà văn Nguyễn Dương Côn, chúng tôi nhận được ý kiến “phản biện” của 2 nhà văn Phương Lựu và Trần Thanh Đạm.
LTS: Có nhiều cách hiểu về câu thơ trên. Y kiến của cụ Thanh Huy - Cử nhân Văn khoa Việt Hán, sinh 1916 tại Huế, cũng là một ý có thể tham khảo đối với những ai quan tâm Truyện Kiều, để hiểu thêm và đi đến kết luận về cách tính thước tấc của người xưa.
SH
Từ thơ ca truyền thống đến Thơ mới là một sự đột phá vĩ đại trong quan điểm thẩm mỹ của thơ ca. Chính sự cách tân trong quan niệm về cái đẹp này đã làm một "cú hích" quan trọng cho tiến trình phát triển của thơ ca Việt . Nó đã giúp thơ ca dân tộc nhanh chóng phát triển theo con đường hiện đại hóa. Và từ đây, thơ ca Việt có thể hội nhập vào thơ ca nhân loại.
Trong truyền thống thơ ca Nhật Bản, thơ haiku giữ một vị trí rất quan trọng. Nó là một viên ngọc quý giá và là một phần tài sản tinh thần trong kho tàng văn học Nhật Bản.
(Trao đổi với nhà lý luận Nguyễn Dương Côn)
"Thượng đế dằn vặt tôi suốt đời" (Đôxtôiepxki)
1. Trong số những người đi tiên phong.
Mười năm thơ thập thững vào kinh tế thị trường cũng là mười năm những nhà thơ Việt phải cõng Thơ leo núi.
Từ lâu, người ta đã nói đến cuộc tổng khủng hoảng của văn học trên quy mô toàn thế giới.
Bàn luận về những vấn đề văn học mới, phạm trù văn học mới, tiến trình hiện đại hoá văn học Việt Nam ở thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định giá trị và sự đóng góp của văn học hợp pháp, văn học cách mạng trong nửa đầu thế kỉ. Với cái nhìn bao quát và biện chứng theo dòng thời gian, chúng ta nhận rõ công lao góp phần mở đầu hiện đại hoá và phát triển văn học theo qui luật tiến hoá của lịch sử Việt của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.
Khi sử dụng một khái niệm cơ bản, nhất là khái niệm cơ bản chưa được mọi người hiểu một cách thống nhất, người ta thường giới thuyết nó.
Tô Hoài, trong hơn 60 năm viết, thuộc số người hiếm hoi có khả năng thâm nhập rất nhanh và rất sâu vào những vùng đất mới. Đây là kết quả sự hô ứng, sự hội nhập đến từ hai phía: phía chuẩn bị chủ quan của người viết và phía yêu cầu khách quan của công chúng, của cách mạng.
Sóng đôi (bài tỉ, sắp hàng ngang nhau) là phép tu từ cổ xưa trong đó các bộ phận giống nhau của câu được lặp lại trong câu hay đoạn văn, thơ, làm cho cấu trúc lời văn được chỉnh tề, rõ rệt, nhất quán, đồng thời do sự lặp lại mà tạo thành nhịp điệu mạnh mẽ, như thác nước từ trên cao đổ xuống, hình thành khí thế của lời văn lời thơ.
LTS: Trên Sông Hương số tháng 10 - 2007, chúng tôi đã giới thiệu về công trình “La littérature en péril” (Nền văn chương đang lâm nguy) củaTzvetan Todorov - nhà triết học, mỹ học và nhà lý luận văn học nổi tiếng của Pháp.