Suy nghĩ về việc giới thiệu các truyện Nôm cổ

11:21 30/05/2008
(Nhân đọc: "Truyện Mã Phụng - Xuân Hương") * Truyện "Mã Phụng - Xuân Hương" trước đây còn được quen gọi dưới nhiều tên khác nhau, lúc là Vè Bà Phó, Vè Mã Phụng - Mã Long, khi là Thơ Mụ Đội, khi lại là Truyện Mã Ô - Mã Phụng v.v... là một tác phẩm văn học dân gian vốn được nhân dân Bình - Trị - Thiên rất yêu thích, phạm vi phổ biến trước Cách mạng Tháng Tám 1945 khá rộng.

Năm 1984 - như vậy là cách đây đã 16 năm rồi (và từ đó cho tới nay chưa có một công trình nghiên cứu giới thiệu khác về tác phẩm đó ra mắt bạn đọc), Nhà xuất bản Thuận Hóa thực hiện chương trình sưu tầm vốn cổ của dân tộc đã phát hành rộng rãi tác phẩm đó, một việc làm đáp ứng yêu cầu bạn đọc không chỉ của Bình - Trị - Thiên quê hương tác phẩm, mà còn của cả đông đảo bạn đọc trong cả nước.
Bài viết này không có mục đích đánh giá toàn diện công trình sưu tầm, nghiên cứu, giới thiệu của hai ông Nguyễn Thạch Giang - Trần Việt Ngữ, như về nghệ thuật tác phẩm, tình hình văn bản và vấn đề xử lý văn bản, mà chỉ nhân đọc Truyện Mã Phụng - Xuân Hương phát biểu một số suy nghĩ về việc giới thiệu các truyện Nôm dân gian nói chung.
Truyện Mã Phụng - Xuân Hương kể lại câu chuyện ba đời họ Mã, cha là Mã Ô, hai con là Mã Long và Mã Phụng, cháu là Mã Điểu, đã hết lòng với vua, đánh đông dẹp bắc để bên trong dẹp yên giặc giã, bên ngoài đánh lùi ngoại xâm. Đến khi nhà vua mất, bọn gian thần lợi dụng hoàng tử còn nhỏ để cướp ngôi. Phái trung thần trong triều, trong số đó gia tộc họ Mã chiếm số đông, đã giải thoát cho hoàng hậu và hoàng tử đưa vào rừng lánh nạn. Sau khi dẹp yên bọn phản thần, hoàng tử về kinh được tôn lên ngôi vua đã trọng thưởng cho gia tộc họ Mã.
Tất nhiên theo lối kết thúc có hậu của truyện cổ, vua mới xuống chiếu tha sưu thuế ba năm liền cho dân, chẩn cấp cho những người tàn tật, nghèo khổ, cô nhi, quả phụ..., nhân dân được an cư lạc nghiệp, chúc tụng nhà vua "Vạn thọ vô cương"!
Qua công trình, bạn đọc nhận thấy hai ông Nguyễn Thạch Giang - Trần Việt Ngữ đã có nhiều tìm tòi suy nghĩ đi sâu vào nội dung câu chuyện để làm rõ những điều hay, vẻ đẹp của người xưa, về lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, về tình chung thủy giữa vợ chồng, về tình yêu chân chính của trai gái, về nghĩa tớ thầy, nhiều đạo đức truyền tống của dân tộc đến nay vẫn còn giá trị và cần được phát huy mặt tích cực trong những điều kiện lịch sử mới.
Nhưng vấn đề quan trọng hơn là cần đánh giá thế nào cho đúng mức, tuyệt đối không được "hiện đại hóa" tư tưởng và hành động của người xưa. Chúng tôi nghĩ rằng khẳng định Truyện Mã Phụng - Xuân Hương là "một bài trường ca về lòng yêu nước và tự hào dân tộc, một bản dân ca biểu dương tình yêu, bình đẳng, tự do, chung thủy, một cái nhìn mới về người phụ nữ trung hậu, đảm đang" như trong Lời nhà xuất bản (trang 5) là không thực tế, là phi lịch sử. Cũng như trong Lời tựa của sách cho rằng Truyện Mã Phụng- Xuân Hương "mang tính lạc quan tươi mát lạ lùng" (trang 7), hay trong phần Giới thiệu tác phẩm đi tới kết luận rằng ngày nay đọc lại tập truyện "vẫn gây cho chúng ta âm hưởng trong trẻo lạ lùng về những giá trị văn hóa một thời và nhất là về truyền thống vì đại nghĩa mà hy sinh phấn đấu của dân tộc! Gia đình họ Mã ba đời cùng chung "một chiến hào" đánh giặc cứu nước là một trong những biểu hiện cụ thể chói lọi của truyền thống đó" (trang 39) thì rõ ràng không đi sâu vào bản chất của sự kiện, đã tách rời các nhân vật với thời đại họ sống, không nắm được động cơ và tích chất của các việc họ làm, vì vậy không nêu được các mặt hạn chế của các nhân vật trong truyện, cũng như không đánh giá đúng tư tưởng và hành động của họ.
Riêng trong trường hợp Truyện Mã Phụng - Xuân Hương, nếu chú ý đến một số sự kiện, chi tiết được phản ánh qua tác phẩm thì sẽ có thể đánh giá được đúng đắn hơn. Cần xác định bối cảnh lịch sử được phản ánh qua tác phẩm là Việt Nam vào những năm nửa sau thế kỷ XlX. Lúc này triều đại phong kiến cầm quyền là nhà Nguyễn đang bị đặt trước hai nguy cơ lớn: một là phong trào nông dân khởi nghĩa đang phát triển mạnh mẽ và lan tràn rộng khắp, và sau đó là chủ nghĩa đế quốc phương Tây đang ráo riết đẩy mạnh âm mưu xâm lược. Cho nên một tai họa lớn trong nhân dân lúc bấy giờ là bị bắt đi lính liên miên suốt năm này qua năm khác. Nhân vật Mã Ô xuất thân nghèo khổ, tứ cố vô thân, vừa đúng 18 tuổi đã bị "bắt rày bổ dân", để rồi bị sai phái đi tham gia đàn áp "giặc ở Giang Đông", tức là các cuộc nổi dậy của nông dân để chết thay cho bè lũ vua quan phong kiến và cường hào sâu mọt ở nông thôn, sao có thể gọi là "tình nguyện đi lính cho làng"! Đến khi có giặc Tây Phiên kéo tới thì chuyển sang chống ngoại xâm, và lúc này Mã Phụng (con của đô đốc Mã Ô) lĩnh chức Đổng nhung cầm quân đi đánh giặc xâm lăng theo lệnh của triều đình, hành động đó có ý nghĩa tích cực. Tiếc rằng Mã Phụng đã bị thua, bị tướng giặc bắt, may được vợ là Xuân Hương "hóa phép" giải thoát! Tuy rằng quân Tây Phiên sau đó đã bị thất bại, thì đó cũng chỉ là một sự phản ánh lệch lạc thực tế lịch sử theo ước vọng, mong muốn của tác giả và những người cùng thời, chứ thực ra như chúng ta đều biết rằng cuối thế kỷ XlX, dưới triều Nguyễn, nước ta đã bị mất vào tay tư bản phương Tây.
Để kết thúc bài viết này, như đề bài ở trên đã xác định, chúng tôi chỉ muốn nhân đọc lời giới thiệu sách Truyện Mã Phụng - Xuân Hương nhấn mạnh rằng khi nghiên cứu các di văn, đặc biệt là các truyện Nôm cổ, cần phải nắm vững bối cảnh ra đời của tác phẩm, cùng các đặc điểm gắn liền với bối cảnh lịch sử đó, mới có thể đi tới những nhận định, đánh giá sát hợp, nếu không thì chỉ đi tới những nhận định, đánh giá thiếu chính xác, nếu không muốn nói là sai trái về các sự kiện cũng như về các hành động của các nhân vật trong truyện. Thiết tưởng đó là một nguyên tắc có tính phương pháp luận không thể không bảo đảm trong nghiên cứu vốn cổ văn hóa dân tộc.

PHẠM ĐÌNH LÃM
(nguồn: TCSH số 150 - 08 - 2001)

--------------------------------------------
(*) Nguyễn Thạch Giang - Trần Việt Ngữ phiên âm, khảo thích, chú giải và giới thiệu.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.

  • Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "

  • Từ cuối tháng 6. 2008, trên mạng Internet, cùng lúc có những bài viết về nhiều nhà văn, nhà thơ ở Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Vàng Sao, Tô Nhuận Vỹ và ở Quảng Trị, Quảng Bình. Các bài viết được đăng tải trên các báo điện tử nước ngoài (hoặc sách in ra được các tờ báo đó đưa lên mạng), cả trên tờ báo của một tổ chức chống nhà nước Việt Nam cực đoan nhất, và trên blogs của một số nhà văn trong nước (được một số báo điện tử nước ngoài nối mạng sau đó). Mục đích khác nhau nhưng các bài đó, tạm xếp vào hai loại, có một điểm giống nhau: DỰNG ĐỨNG những sự kiện của cuộc đời và hoạt động của các nhà văn nhà thơ này.

  • Thư Sông Hương Vậy là năm đầu của thế kỷ XXI, của thiên niên kỷ III Công lịch đã qua. Mới ngày nào đó, khắp hành tinh này còn rộ lên niềm hoang mang và hoang tưởng về một ngày tận thế ở năm 2000 bởi sự “cứu rỗi” của Thiên Chúa hoặc bởi sự “mù loà” của máy tính. Mới một năm thôi mà thế giới loài người đã qua biết bao bất trắc, xung đột, khủng bố... và máu và nước mắt! May mà đất nước chúng ta vẫn được bình yên, ổn định, phát triển theo Đường lối Đại hội IX của Đảng. May mà dân ta vẫn còn nhu cầu Văn hoá tâm linh. Văn hoá tâm linh cũng là thuộc tính của văn học nghệ thuật. Các tờ báo văn nghệ tồn tại được chính nhờ nhu cầu đó. Qua một năm nhìn lại, Tạp chí Sông Hương chúng tôi ngày một được bạn đọc tin cậy hơn, cộng tác càng nhiều hơn, thật là điều vinh hạnh. Song, ngược lại, chúng tôi cũng lấy làm áy náy vì bài vở thì nhiều mà trang báo lại có hạn, không thể đăng tải hết được, nhất là số Tết này. Ở đây, nó mang một nghịch lý chua chát, bi hài như một nhà viết kịch đã nói: “Số ghế bao giờ cũng ít hơn số người muốn ngồi vào ghế”. Ngoài sự bất cập ấy, hẳn còn có những điều khiếm nhã khác mà chúng tôi không biết làm gì hơn ngoài lời xin lỗi, lời cảm ơn và mong được thể tất. Chúng tôi xin cố gắng chăm lo tờ Sông Hương luôn giữ được sắc thái riêng, có chất lượng để khỏi phụ lòng các bạn. Dù thế giới có biến đổi thế nào đi nữa thì Sông Hương vẫn mãi mãi muốn được thuỷ chung với bạn đọc, bạn viết của mình. Nhân dịp tết Nhâm Ngọ, Sông Hương trân trọng chúc Tết các bạn sang năm mới thêm dồi dào sức khoẻ, thành đạt và hạnh phúc. S.H

  • Các bạn đang cầm trên tay số kỷ niệm 25 năm thành lập Tạp chí Sông Hương. Mới ngày nào đó, một ngày hè tháng 6 năm 1983, trong niềm khao khát của không khí đổi mới trong văn học nghệ thuật, Tạp chí Sông Hương số 01 ra mắt và đón nhận sự hưởng ứng của công chúng. Đó là một sự khởi đầu được mong đợi từ hai phía: người viết và bạn đọc.

  • Gần đây đọc các bài của Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Hùng Vĩ bàn về ba bài thơ Thu của Nguyễn Khuyến trên Văn nghệ (1), tôi thấy câu "Nước biếc trông như tầng khói phủ" trong bài Thu vịnh là câu thơ sáng rõ, không có gì khó hiểu mà lại được bàn nhiều. Mỗi người hiểu mỗi cách mà đều hiểu không đúng, chỉ vì không để ý rằng câu thơ này được viết theo lối "đảo trang".

  • Trên Tạp chí Sông Hương số tháng 3, nhân sự kiện Trần Hạ Tháp dành được giải A trong cuộc thi truyện ngắn của báo “Văn nghệ”, tôi vừa lên tiếng về sự “lặng lẽ” - một điều kiện cần thiết để làm nên tác phẩm văn học nghệ thuật có giá trị, nay lại nói điều ngược lại, vậy có “bất nhất” có mâu thuẫn không?

  • Trên thực tế, việc bảo tồn những vốn quý của cha ông để lại quả không phải là việc đơn giản, dễ dàng. Nhưng chúng ta sẽ không thể có sự chọn lựa nào khác bởi vì sẽ không có một nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nào cả nếu từ bây giờ chúng ta không biết giữ lấy những gì mình đang có.

  • Mang tên dòng sông duyên dáng thả mình bên thành phố Huế - SÔNG HƯƠNG, những trang tạp chí này là dòng chảy của những cảm xúc tươi đẹp trên “khúc ruột miền Trung” đất nước.

  • Từ xa xưa đến bây giờ, thường tục vẫn nói "sông có khúc người có lúc". Không biết Sông Hương bản báo năm rồi (năm tuổi 15) là sông hay là người? Có lẽ cả hai. Vậy nên cái khúc và cái lúc của nó đã chồng lên nhau - chồng lên nhau những khó khăn và tai tiếng!