Nhà thơ Xuân Hoàng - Ảnh: nld.com.vn
Vốn duyên nợ với thơ, tôi đã đọc Xuân Hoàng từ những năm còn ngồi trên ghế nhà trường. Hồi đó, tôi mến thơ anh vì một lẽ hết sức giản dị: Thơ anh nói đến những gì gần gũi thân thiết đối với tôi. Tôi bồi hồi với những vần thơ anh viết về sông Gianh - con sông chảy ngang qua làng nhỏ quê tôi. Anh nói đến Lèn Bảng - Hòn Lèn chiều chiều tôi thường nhìn ngắm. Tôi chưa nhận thức được một cách rõ ràng như bây giờ, nhưng những câu thơ ấy cứ đi vào tâm hồn tôi một cách tự nhiên như lời ru lắng vào tâm hồn thơ trẻ. Từ đó tôi chăm chú theo dõi thơ anh. Tôi đã đọc “Biển và bờ”, “Dải đất vùng trời”, “Về một mùa gió thổi”… và bây giờ là: “Quãng cách lặng im”! Biết nói thế nào về tập thơ đã gây cho tôi nhiều xúc cảm này? Mỗi người có một cách cảm nhận. Riêng tôi, điều làm cho tôi trân trọng “Quãng cách lặng im” chính là sự lắng lại của một tâm hồn thơ vốn rất say sưa, sôi nổi. So với các tập thơ trước của anh tập thơ này có phần phong phú và đa dạng hơn. Mới đọc lướt qua tưởng như không có gì mới mẻ. Tất cả thơ anh đều thể hiện tình yêu của anh đối với cuộc sống đối với con người, đối với nhân dân, đất nước… Những đề tài quen thuộc ấy, qua mỗi bước đi của lịch sử, qua từng chặng đường đời của từng tác giả lại luôn luôn mới với những sắc thái riêng. Tình yêu ấy ở “Quãng cách lặng im” là tình yêu của một con người đã dâng hiến cả đời mình cho cách mạng, cho thơ ca; là tình yêu của con người đã đi qua những tháng năm bom đạn, đã nếm đủ vị chua ngọt, đã chứng kiến bao nhiêu biến cố lớn lao: Tôi đã đi. Đã gặp. Đã vui cười Đã giận dữ. Đã đau buồn. Đã khóc Giờ gặp biển. Bỗng nhiên bao mệt nhọc Tự cuộc đời, yên lắng lại trong tôi. (Về với biển) Về với biển là cách nói tượng trưng. Biển là niềm khát vọng. Biển là niềm ước mơ. Biển là cuộc đời rộng lớn… Gặp biển là gặp khát vọng, ước mơ, lý tưởng, cuộc đời… Và anh đã không hổ thẹn khi soi mình trước biển mặc dù anh biết mình chỉ là “con sóng nhỏ”. “Con sóng nhỏ” nhưng không phải là con sóng thờ ơ, vô tình chỉ ghi hờ một đường lăn trên cát: Chút phát hiện trong phút giờ gặp lại Phải đi qua bao năm tháng bão bùng. Bởi thế anh vẫn cảm thấy mình vẫn còn rất trẻ, vẫn còn sung sức dẫu mái tóc xanh của anh, anh đã dâng cho biển lâu rồi: Giờ còn lại những sợi mềm tỏa sáng Cũng như sóng, dưới chân tôi, bạc trắng Bên nền xanh của biển tiếp chân trời. Bài thơ mang tính chất đúc kết cuộc đời. Lời thơ điềm đạm, sâu lắng. Chính sự lắng lại này đã tạo nên âm hưởng chung của “Quãng cách lặng im”. Đó là âm hưởng trầm tĩnh, thầm thì, tha thiết, có pha một chút day dứt mà vẫn không kém phần sôi động, rạo rực. Ở “Biển và bờ” âm hưởng chủ đạo là âm hưởng anh hùng ca với những bài thơ hừng hực khí thế chiến đấu như “Pu-la-nhích”, “Những tổ đại bàng”, “Ngã ba Lùm-Bùm”… Ở “Về một mùa gió thổi”, cảm xúc của anh đằm lại. Anh say sưa chiêm ngưỡng cảnh sắc thêm nhiều với những cảm nhận tinh tế trong “Sông Cầu”, “Một chiều Đồng Hới”, “Mưa Huế”… “Quãng cách lặng im” anh vẫn mang chất lãng mạn sôi nổi của anh, nhưng tất cả như lắng vào bên trong. Có lẽ bởi vì giờ đây anh có thời gian để suy nghĩ nhiều hơn, để nhìn lại mình kỹ hơn. Chúng ta gặp trong “Quãng cách lặng im” những “phút giây riêng”. Khuynh hướng chung trong “Quãng cách lặng im” là khuynh hướng đi vào nội tâm, bày giải những nỗi niềm sâu kín. Đọc “Biển và bờ”, “Về một mùa gió thổi” ta hiểu đất nước nhiều hơn là hiểu nhà thơ. Ở “Quãng cách lặng im” không những ta hiểu thêm về đất nước mà còn hiểu khá kỹ về Xuân Hoàng với những niềm vui và nỗi buồn thành thực. Anh không giấu “những vết thương vô ý tự gây nên” anh không giấu: (Con người thực cần tôi bên cánh cửa Cái ở Cái ăn Cái mặc hàng ngày…) Anh nói ra những điều đó mà không sợ người đọc hiểu lầm về anh. Không những thế chính sự bộc bạch thật thà ấy càng làm cho người đọc cảm mến anh hơn, gần gũi với anh hơn. Những câu thơ như những lời ghi chú bình thường ấy lại có vị trí hết sức đặc biệt. Nó góp phần xóa đi cái khoảng cách giữa anh và người đọc. Anh không kênh kiệu, cao đạo khác đời, khác người. Anh muốn hòa trong mọi người nhưng vẫn là anh - một Xuân Hoàng nhạy bén và đa cảm: Khi tóc anh bạc rồi Em là hoa me đất Nở trong chiều xa lắc Tím hồng màu thời gian Đội cánh dù xanh biếc Đến cùng anh tha thiết. Chung quanh “Hoa chua me đất” đã nảy sinh nhiều ý kiến khác nhau. Với tôi, đây là một trong những bài thơ hay trong tập. Tôi đã có dịp chứng kiến một đồng nghiệp của tôi đọc bài thơ này trước sinh viên và rơm rớm nước mắt. Cả giảng đường lặng đi với giọng đọc giàu sức truyền cảm của anh. Phải rất nhạy bén và đa cảm, phải yêu tha thiết cuộc đời mới viết được những câu thơ có sức lay động lòng người như thế. Bên cạnh niềm vui về một thị xã đang dựng xây anh có nỗi bâng khuâng với “vầng trăng kỷ niệm” vừa nhô lên trên biển Vũng Tàu. Bên cạnh không khí lãng mạn của một chiều hải đảo: chim én bay quanh quán rượu xập xè. Anh có nét trầm tư của Cồn Cỏ giữa trưa đứng gió. Phút im lặng là giây phút anh suy ngẫm bao ba động cuộc đời: Nhiều kỷ niệm xa rồi, nên nhắc hay quên Một tình bạn rẽ đôi, một mối tình đã chết Một mầm nhớ tưởng chừng không dễ biết Một âm ba rất lặng của ưu phiền Người đọc bắt gặp trong “Quãng cách lặng im” những tình cảm hết sức trong sáng, lành mạnh. Thơ anh đôn hậu như chính con người của anh. Anh thương một tiếng ve bị người đời quên lãng, thương một làn hương cũ khi trở về phố biển quê hương, thương cây đèn biển đứng chơ vơ bên cửa sông một thị xã bị tàn phá trong chiến tranh chưa kịp xây dựng lại, thương nhành mai nở lặng lẽ một mình: Chỉ thơm trong sắc lặng thinh Và sẽ thơm như thế, không ai biết Trong núi, như trời, đất, với hoa (Mai vàng và mùa xuân) Bài thơ “Khi nào thấy” đã chiếm được cảm tình của rất nhiều bạn đọc. Cả bài thơ toát lên tấm lòng nhân hậu độ lượng, bao dung của anh đối với mọi người, nó biểu hiện một cách rõ nét, sự lắng lại của một tâm hồn đã trải qua bao nhiêu thử thách: Nếu cần nữa, tôi là hồ trên núi Trong hoang vu im lặng ngắm mây trời Em hãy đến, chim thiên nga, cánh mỏi Đậu yên lành trên gương mặt hồ tôi Không gian và thời gian trong rất nhiều bài thơ dường như cùng lắng lại cùng với tâm hồn tác giả. Đây là cảnh hoàng hôn trên hải đảo: Mặt trời xuống, làng chài lên khói bếp Núi nghiêm trang soi bóng xuống chân bờ Tiếng trẻ gọi vang dài thung lũng hẹp Con cún nào trong xóm sủa vu vơ Và đây là cảnh Bàu Tró một chiều bình yên: Cát vàng lắng tiếng dương reo Cánh chim cun cút cắt vèo thinh không Xuân Hoàng không cầu kỳ lập dị, không chạy theo “mốt” để hợp thời trang. Anh không gò thơ mình vào một thể cố định. Dù viết thơ 5 chữ, 7 chữ, lục bát hay câu thơ dài ngắn không đều ta vẫn có thể nhận ra giọng điệu của anh. Anh không ưa lòe kiến thức để tỏ ra uyên bác. Anh đưa những hiểu biết của mình vào thơ rất tự nhiên. Trong bài “Sen trắng” anh gợi thơ Lý Bạch một cách kín đáo: Không thấy người hái sen Chèo thuyền trong nắng sớm Anh cũng không “hiện đại” theo kiểu học đòi. Anh có nhiều cách nói sáng tạo nhưng vẫn in đậm phong cách của anh: Ngập ngừng hơi gió se se Sáng ra thu đã đứng kề bên hiên (Vùng biển sang thu) Có một thời em lạc vào quĩ đạo Thành vệ tinh màu trắng không về (Con tàu trắng) Xoài xanh nay đã chín rồi Chẳng hay giọt lệ có muồi theo hương (Mùa xoài) … Tất cả đó đều chứng tỏ sự lắng lại của một tâm hồn! “Quãng cách lặng im” là tính chất được lọc ra trong hơn hai mươi năm lăn lộn với thơ. Anh đã mạnh dạn gạt bỏ những chi tiết rườm rà, những kể lể dài dòng, những ngôn từ mòn sáo. Sau một chặng đường dài trăn trở, tìm kiếm phải chăng Xuân Hoàng đang càng ngày càng đến gần với cái đẹp của thơ ca chân chính. Hiện nay thơ đang là vấn đề thời sự. Bao nhiêu câu hỏi đặt ra cho thơ trong chặng đường mới này, “Quãng cách lặng im” phải chăng là một cách phát biểu của Xuân Hoàng? Có nhiều con nhộng biển Đang chờ ngày xé tơ Có nhiều con bướm biển Đang rụng cánh từng giờ Tôi trở lại là tằm Nhả ra nhiều sợi ánh Dệt nghìn vuông lụa sáng Cho cuộc đời và em! (Trước biển) Còn nhiều điều tôi muốn nói về “Quãng cách lặng im” và cũng còn đôi bài thơ, đôi câu thơ trong tập tôi chưa thích lắm. Biết làm sao được! Đòi hỏi của người đọc thì vô cùng mà tài năng của bất cứ thi sĩ nào cũng có giới hạn. Thành công của anh trong tập thơ này là kết quả của một quá trình phấn đấu thầm lặng, gay go và gian khổ: Quãng cách nói gì ở đây Có bao việc làm không nói Giữa chiều bom rơi đồi sỏi Và chiều Đà Lạt hôm nay… Huế, tháng 1-1985 M.V.H. (14/8-85) |
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Phùng Quán & Tôi” của Xuân Đài, Nxb. Phụ nữ Việt Nam, 2020)
HỒ THẾ HÀ
Hồng Nhu xuất phát nghiệp bút của mình bằng văn xuôi. Văn xuôi gắn bó với đời như một duyên mệnh.
YẾN THANH
Rất nhiều nhà văn thành danh hiện nay, sau những thành công trên trường văn trận bút, đột nhiên họ làm bạn đọc bất ngờ bằng cách chuyển hướng sang viết cho thiếu nhi, như trường hợp của Nguyễn Lãm Thắng, Nguyễn Đình Tú, Phong Điệp, Dương Thụy, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Đỗ Bích Thúy…
ĐỖ THU THỦY
1.
Trường ca Ngang qua bình minh là ấn phẩm thứ ba của nhà thơ Lữ Mai, sau hai tập tản văn và ký sự: Nơi đầu sóng, Mắt trùng khơi viết về đề tài biển đảo.
NGƯỜI THỰC HIỆN:
Lê Thị Mây là một cô gái cực kỳ ít nói. Nhà thơ chi thích lặng lẽ nhìn, lặng lẽ nghe, lặng lẽ suy ngẫm... Và nếu như phải nói gì trước đám đông thì đó là một "cực hình" - Kể cả đọc thơ mình - Mây vẫn như vậy.
NGUYỄN THỊ LIÊN TÂM
NGUYỄN PHƯỚC HẢI TRUNG
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Quang Dũng (1921 - 1988).
LÊ NGUYỄN LƯU
Trong nền văn học đời Đường, thơ ca có một vị trí đặc biệt, trội hơn cả phú đời Hán, từ đời Tống, khúc đời Minh...
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Miền quê thơ ấu” - Hồi ký của Thanh Tùng, Nxb. Thuận Hóa, 2020)
VÕ QUÊ
Cố đô Huế - Dấu ấn thời gian” là công trình nghiên cứu thứ ba của nhà nghiên cứu văn hóa Hồ Vĩnh do Nhà xuất bản Đại học Huế cấp giấy phép, tiếp theo 2 ấn bản “Dấu tích văn hóa thời Nguyễn” (in năm 1996 và 2 lần tái bản có bổ sung năm 1998, 2000); “Giữ hồn cho Huế” (2006).
PHONG LÊ
Anh "nhà quê" "chơi trèo" thành phố, với những thất bại và bi kịch khó tránh của nó. Mối quan hệ so le, bất bình đẳng giữa nông thôn và thành thị...
KỶ NIỆM 35 HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM (1957-1992) - 60 NĂM PHONG TRÀO THƠ MỚI (1932-1992)
NGÔ MINH
+ Cái đêm thẳm khuya Cửa Tùng gió ấy, tôi ngồi với Nguyễn Khắc Thạch bên này bờ sông, bên này chai rượu Huế, bên này mũi Si và bên này những nén nhang lập lòe như hồn ma nơi xóm Cửa!
VƯƠNG HỒNG HOAN
Vài năm gần đây truyện ngắn của Triều Nguyên xuất hiện trên Sông Hương. "Tháng bảy không mưa" là tập truyện ngắn đầu tay tập hợp một số những sáng tác chưa được công bố của anh. Đề tài chủ yếu trong tập truyện là viết về nông thôn.
PHONG LÊ
Một sự nghiệp viết chẵn năm mươi năm, tính từ Yêu sách của nhân dân An Nam (1919) đến Di chúc (1969).
NGUYỄN THÙY TRANG
THÍCH CHẤN ĐẠO
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là một Thiền phái nhất tông mang tinh thần nhập thế tích cực đã góp phần quan trọng trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.
MAI VĂN HOAN
Nhà thơ Trần Vàng Sao, tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1941 ở thôn Vỹ Dạ, thành phố Huế.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc “Gánh gánh… gồng gồng…”, Hồi ký của Xuân Phượng, Nxb. Văn hóa - Văn nghệ, 2020; Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam năm 2020)
VŨ NGỌC GIAO
Có một lần tôi đã chia sẻ với nhà văn Vĩnh Quyền rằng, tôi rất thích Rừng Na uy.