Sông Hương - vẻ đẹp mong manh dễ bị phá vỡ

10:07 02/10/2008
TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam                                                                    (Huế)

Đặt Huế gắn liền với cơ thể Việt Nam là đúng rồi, và ai cũng phải thừa nhận, nhưng nhận ra Huế là “nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam” thì phải có một tâm hồn rất nhạy cảm và đầy nữ tính mới phát hiện được.
Ở nơi nhạy cảm đó thì tâm điểm dễ làm bùng vỡ cảm xúc nhất của Huế là sông Hương - con sông đã làm nên thần thái của Huế - con sông vẫn ngày đêm lặng lẽ khép mình giữa hai bờ đầy chất thơ, con sông đôi lúc lại bất ngờ nổi sóng, ào ạt tuôn trào, kéo theo những cơn lũ đầu nguồn nhấn chìm biết bao sinh mạng, để rồi sau đó đêm đêm lại réo rắt những khúc nhạc buồn và lời ca nức nở.
Có lẽ trong những ngày nung nấu chí làm trai ở chốn kinh đô tù túng, với hào khí bị dồn nén, Cao Bá Quát đã nhận ra hình ảnh sông Hương như thanh kiếm dựng đứng giữa trời xanh:
Trường giang như kiếm lập thanh thiên

Câu thơ độc đáo của Cao Bá Quát xuất hiện trong dòng thơ viết về sông Hương cũng bất ngờ và đột ngột như những cơn lũ bất thường ở Huế. Và sau đó, dòng sông lại êm ả trở về với dáng điệu đài các kiêu kỳ, uể oải vắt mình qua thành phố như một dải lụa mềm, vẫn là “con sông dùng dằng, con sông không chảy” (Thu Bồn), vẫn như một mảnh trăng khuyết gợi lại mối sầu vạn thuở (Nguyễn Du: Hương giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa đa sầu).
Có thể nói cảm nhận bao trùm toát lên từ sông Hương là dòng sông đẹp, nhưng là một vẻ đẹp mong manh, một vẻ đẹp dễ bị phá vỡ.

Từ đại ngàn hoang sơ của dãy Trường Sơn hùng vĩ, nối kết với hàng ngàn mạch suối róc rách chảy suốt ngày đêm, sông Hương đã mang vẻ đẹp đầy chất thơ của núi rừng thiên nhiên xứ Huế. Truyền thuyết từ lâu rồi vẫn từng nhắc đến loài cây Thạch xương bồ rũ dày ven các dòng suối đầu nguồn sông Hương, một tặng phẩm thơm ngát của Trường Sơn đã nhiều đời thấm đẫm xuống dòng nước để dân gian phải tấm tắc ngợi ca, đặt tên cho dòng sông là Hương giang - dòng sông thơm. Nhưng vẻ đẹp hoang dã nầy cũng đang tích tụ không ít những nguy cơ tiềm ẩn. Chỉ cần những cánh rừng bạt ngàn ở đầu nguồn không được gìn giữ tốt, những khu rừng phòng hộ bị tùy tiện chặt phá, những đoạn sông bị đào bới khai thác cát sạn “vô tội vạ”, thì sẽ đến một ngày những cơn thịnh nộ từ đầu nguồn sẽ tuôn xả về xuôi, giáng xuống những trận lũ lụt kinh hoàng, vừa tước đi những thành quả lao động miệt mài, vừa rải dài những dải khăn tang lên đầu không ít người dân xứ Huế. Rồi lớp lớp phù sa đất đá bị bào mòn, không phải để mang về màu mỡ cho đồng ruộng, mà sẽ lần hồi bồi lấp dòng sông, kết thành những cồn bãi rong rêu lau lách, xóa dần mặt nước trong xanh đặc trưng của dòng sông Hương.

Hương giang thật sự là dòng sông xanh. Nước trong xanh phản chiếu cả trời trong xanh. Màu xanh của dòng sông còn được điểm tô bởi hai dãy hành lang cây xanh bạt ngàn dọc hai bờ sông. Có cả rừng thông xanh trầm mặc từng gắn bó keo sơn với vùng lăng tẩm của vua chúa và danh gia vọng tộc chốn kinh kỳ. Có cả những dãy đồi xanh, những cánh đồng xanh, những rặng tre xanh, những ngôi nhà vườn xanh mát với hoa thơm trái ngọt. Có cả những dãy công viên xanh từng được chăm chút qua nhiều đời. Nhưng thấp thoáng đâu đó, vẻ đẹp duyên dáng của đôi bờ sông xanh đang đứng tr
ước nguy cơ bị phá vỡ. Nơi nầy một công trình vô duyên, nơi kia một cao ốc kệch cỡm, chốn nọ là những mảng bê tông phô mình thách thức với nét duyên dáng của dòng sông. Và còn đâu những chiếc thuyền nhỏ lững lờ trôi với “những đêm đàn lạnh trên sông Huế” (Văn Cao) mà thay vào đó đang có trên hai trăm chiếc thuyền “gà cồ” mạo danh thuyền rồng nổ máy suốt ngày đêm, hợp lực với những chiếc thuyền khai thác cát sạn, những chiếc đò nghèo khổ của lớp cư dân thủy diện chờ mãi chẳng thấy đổi đời, nối kết thành những mảng lưới rằn rện trưng bày chướng mắt dọc hai bờ sông xanh.

Thật ra, sông Hương không phải là dòng sông hoang sơ chảy mãi giữa hai bờ bát ngát xanh, mà từ ngã ba Bàng Lãng, nơi hợp lưu của Tả Trạch và Hữu Trạch xuôi về kinh thành, dòng sông đã được tô điểm thêm với cảnh quan uy nghiêm của lăng vua Minh Mạng, lăng vua Tự Đức, đồi Vọng Cảnh, điện Hòn Chén, đền Văn Thánh, Võ Thánh và nổi bật bên đồi Hà Khê là tháp chùa Thiên Mụ, nối liền khu nhà vườn và phủ đệ của các danh gia vọng tộc vùng Kim Long. Soi mình bên dòng sông Hương là kinh thành Huế với các công trình kiến trúc Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu xinh xắn, là Kỳ Đài uy nghi và thấp thoáng bên trong là Ngọ Môn rực rỡ với cung điện vàng son một thời của các triều vua nhà Nguyễn. Lớp lớp những đền đài, cung điện, phủ đệ với các công trình tinh xảo, hòa mình trong cảnh quan sân vườn kiểu Huế, tạo thành một phong cách kiến trúc hòa điệu độc đáo của kinh thành Việt Nam, hướng ra sông Hương với rồng chầu ở Cồn Hến - Thanh Long, hổ phục ở Cồn Dã Viên - Bạch Hổ. Sau ngày Kinh đô thất thủ (1885), nhiều công trình kiến trúc thuộc địa đã được xây dựng ở bờ Nam sông Hương đối diện với kinh thành cổ kính, nh
ưng với tầm nhìn của những kiến trúc sư người Pháp, khu phố Tây ở bờ Nam vẫn khép mình bên dòng sông Hương với những công trình kiến trúc vừa phải, điểm xuyến bởi Tòa Khâm sứ, Dinh Công sứ, Phủ Thủ hiến, Viện Dân biểu Trung kỳ, trường Quốc Học, trường Đồng Khánh... và vắt ngang qua dòng sông Hương là chiếc cầu “6 vài 12 nhịp” xinh xắn như chiếc lược ngà cài lên dòng sông xanh.

Chiếc lược ngà xinh xắn cũng đã một thời bị biến dạng. Vắt ngang qua dòng sông còn có thêm chiếc “cầu mới” đặt để tùy tiện, cắt vụn khoảng không gian thoáng đãng của sông Hương. Vẫn còn đâu đó những nguy cơ rình rập, định cắt xẻ thêm dòng sông, bắc thêm chiếc cầu mới, xây dựng thêm những khu resort lừng lững giữa cồn Dã Viên. Xen vào những công trình kiến trúc thời Pháp ở phía bờ Nam, và ngay cả bên bờ Bắc của vùng kinh thành cổ đã xuất hiện thêm một số công trình mới làm che khuất tầm nhìn thông thoáng hướng về dòng sông, đang gây không ít những lần tranh cãi, nh
ng thấp thỏm lo âu về số phận “hồng nhan” của dòng sông xinh đẹp.

Đang có một số đề án mong muốn phát huy những lợi thế độc đáo của dòng sông Hương, có những đề án còn nhằm chế ngự những tai ương mà thiên nhiên vô tình gây ra trên dòng sông nầy. Dường như ai cũng nói vì Huế, cũng muốn tận dụng vẻ đẹp của sông Hương. Nhưng xin hãy nhẹ tay với dòng sông. Xin hãy như nhà thơ Phan Huyền Thư, dẫu có “muốn thì thầm vuốt ve thật khẽ” chứ chưa nói đến bạo tay với dòng sông, thì xin hãy bình tâm nghĩ thật k
ỹ; xin nhớ đây là tâm điểm nhạy cảm nhất của Huế, nơi vẻ đẹp mong manh rất dễ bị phá vỡ.
                                                 T.T.C
(nguồn: TCSH số 224 - 10 - 2007)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)