Trong khi gần nửa số vở opera của Vivaldi hoàn toàn biệt tăm tích thì "Orlando Furioso" lại tìm được đến hai bản thảo.
Mặc dù không mang phong thái thầy tu, trang phục cũng thời thượng và phóng túng nhưng nhân vật trong bức tranh sơn dầu này được cho là Vivaldi vào khoảng năm 1723 – Tác giả: Khuyết danh; Bảo tàng và Thư viện Âm nhạc Quốc tế, Bologna, Italia.
Antonio Lucio Vivaldi (1678-1741) là một trong những nhạc sĩ vĩ đại nhất thời kỳ Baroque, nguồn cảm hứng cho thiên tài J.S. Bach và W.A. Mozart. Là tay vĩ cầm điêu luyện, hơn 500 tác phẩm của ông chủ yếu dành cho violin độc tấu và dàn nhạc; nhưng bên cạnh đó, ông cũng viết cả các tác phẩm công phu dành cho dàn đồng ca và hàng chục vở opera hoàn chỉnh.
Vào thế kỷ 18, tại Venice, opera là loại hình giải trí cực kỳ phổ biến, không thua gì nhạc pop trong thời hiện đại. Mặc dù bắt đầu sáng tác opera như “nghề tay trái” vào năm 1713 nhưng Vivaldi theo đuổi công việc này suốt 25 năm sau đó và đây cũng là nguồn sống quan trọng nhất của ông. Trong một bức thư gửi nhà bảo trợ của mình - nữ hầu tước Bentivoglio - năm 1737, Vivaldi có nhắc đến “94 vở opera” của ông. Nhưng cho đến nay, giới nghiên cứu mới tìm được bản thảo của khoảng 50 vở, trong đó Orlando Furioso có số phận may mắn khác thường khi không chỉ một mà hai bản tổng phổ của nó đã được phát hiện.
Orlando Furioso được biết đến trước hết qua bản thảo mà Vivaldi sáng tác vào năm 1727 với phần lời của Grazio Braccioli - đây cũng là phiên bản được biểu diễn, thu âm, ghi hình trở lại nhiều lần kể từ năm 1978. Nhưng đến năm 2011, các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc lại phát hiện một tổng phổ hoàn chỉnh khác của vở opera này, có thể là bản đầu tiên viết năm 1714, nằm lẫn trong tập giấy tờ cá nhân của Vivaldi được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Turin, Italia. Tổng phổ này không được chú ý do không có chữ ký tác giả. Là một học giả về Vivaldi, Federico Maria Sardelli, quyết định khảo sát bút tích học đối với bản tổng phổ một cách kỹ lưỡng. Kết quả khảo sát của ông đã được các chuyên gia hàng đầu xác thực, cho thấy đây chính là chữ viết tay của Vivaldi.
Lần theo lịch sử, các học giả cho rằng Orlando Furioso 1714 đã được diễn đến 40 buổi ở Nhà hát San Angelo (Venice), nhưng thông tin nhạc sĩ và đạo diễn là Vivaldi và cha ông thì lại không được nhắc tới. Các học giả lý giải, lúc đó, Vivaldi vẫn là linh mục và ở vào địa vị một linh mục, ông không muốn gắn tên tuổi của mình với những thứ phù phiếm như opera. Vivaldi được cha đưa vào trường dòng từ năm 15 tuổi; sau mười năm học tập, ông đã được thụ phong thánh chức với bí danh là Linh mục Đỏ, gọi theo màu tóc của ông, và ông sáng tác để phụng sự Thiên chúa hơn vì mong muốn tiếng tăm.
Giống và khác
Trong khi phần lời của hai phiên bản Orlando Furioso gần như trùng nhau thì phần nhạc lại hoàn toàn khác biệt. Điểm nổi bật nhất là phiên bản 1714 có tới 20 aria mới, mà nguyên nhân Vivaldi lược bỏ chúng khỏi phiên bản sau này vẫn đang được tìm hiểu.
Ngoài ra còn một số điều chỉnh như vai Orlando từ giọng nam trung (baritone) trong phiên bản 1714 chuyển sang giọng nữ trung (mezzo-soprano) trong phiên bản 1727. Điều này trùng khớp với đặc điểm của nhiều vở opera sau này của Vivaldi – đó là chủ yếu dùng giọng nữ, bất kể nhân vật đó có phải là nữ hay không. Hiện tại, đóng vai Orlando vẫn là những giọng nữ trung hay nữ trầm.
Ngay tại thời điểm được phát hiện, nhiều người đã lạc quan rằng nếu vở opera được khôi phục, nó sẽ trở thành “bom tấm”. Giới chuyên gia và phê bình đã dành cho nó đủ lời khen có cánh. “Món quà từ Thiên đường” - chuyên gia về Vivaldi, Susan Orlando, nói. Còn Federico Maria Sardelli bình luận, “ Một tác phẩm hoàn toàn mới và vô cùng thú vị”. Theo mô tả của ông, nó đơn giản hơn phiên bản sau này nhưng nó cũng rất đẹp, thấp thoáng âm hưởng trong sáng của bộ bốn concerto cho violin Le Quattro Stagioni. “Không có mối liên hệ nào về chủ đề nhưng ngôn ngữ âm nhạc của chúng rất gần nhau. Đây là một vở opera khác thường… Ông ấy tràn ngập ý tưởng.”
Orlando Furioso gồm ba màn, trong đó các aria thể hiện nội tâm nhân vật khá rõ ràng. Riêng về cấu trúc âm nhạc, giai điệu chủ đề nổi bật hơn hẳn dàn nhạc dây, ngoài ra có phần xen kẽ cho các nghệ sĩ solo thỏa sức sáng tạo. Loại nhịp 12/8 được sử dụng rất khéo léo cùng phong cách nhanh-chậm-nhanh tạo nên những phẩm chất đặc trưng: ngắn gọn, nhịp nhàng và dẫn dắt xúc cảm thính giả đi xuyên suốt tác phẩm.
Đặt cạnh nhau, hai bản tổng phổ chính là nguồn tư liệu quý báu cho người nghiên cứu tìm hiểu quá trình phát triển của phong cách Baroque và sự chín muồi trong sáng tác của Vivaldi.
Chỉ một năm sau khi phát hiện Orlando Furioso phiên bản 1714, chính học giả Federico Maria Sardelli đã chỉ huy dàn nhạc Modo Antiquo do ông sáng lập biểu diễn ra mắt vở opera này tại Festival de Beaune – liên hoan Opera Baroque quốc tế kéo dài một tháng vào mùa hè hằng năm tại TP Beaune, Pháp - hồi tháng 7/2012 và được hãng Naïve, cũng của Pháp, thu âm để phát hành bốn tháng sau đó.
Orlando Furioso kể gì?
Orlando Furioso, tạm dịch là Orlando cuồng nộ, có cốt truyện dựa trên trường ca cùng tên của nhà thơ Ludovico Ariosto. Ra đời ở thời kỳ trung cổ, trường ca này mang thông điệp về tôn giáo và văn hóa pha lẫn với phong cách lãng mạn hiệp sĩ đang thịnh hành lúc đó, mềm mại hơn các tác phẩm thuần tính anh hùng hay giáo huấn cùng thời.
Câu chuyện lấy bối cảnh chiến tranh giữa hoàng đế Charlemagne theo Công giáo và vua Agramante, người trị vì châu Phi. Orlando, chiến binh dũng cảm nhất của Charlemagne, đã quên nhiệm vụ bảo vệ hoàng đế vì si mê công chúa ngoại giáo Angelica. Mở đầu trường ca, Angelica trốn thoát khỏi lâu đài của công tước xứ Bavaria và Orlando bắt đầu công cuộc theo đuổi nàng. Cả hai đã trải nhiều chuyện phiêu lưu cho đến khi Angelica cứu sống Medoro, một hiệp sĩ Hồi giáo bị trọng thương, và đem lòng yêu chàng; sau đó, cả hai bỏ trốn đến xứ Cathay (tên gọi cổ chỉ Trung Quốc). Khi đuổi kịp và vỡ mộng, Orlando phẫn nộ và phá hủy mọi thứ trên đường chàng đi, từ châu Âu tới châu Phi. Ở một tuyến nhân vật quan trọng khác là câu chuyện tình yêu cũng nhiều trắc trở giữa nữ chiến binh Công giáo Bradamante và chàng trai Hồi giáo Ruggiero.
Nguồn gốc của trường ca Orlando Furioso khá giống với truyện Kiều, xuất hiện ban đầu dưới dạng tác phẩm văn học Orlando Innamorato (Chàng Orlando si tình) của Matteo Maria Boiardo năm 1495, sau này mới thành cảm hứng thi ca cho Ariosto và gây ảnh hưởng lớn lên văn hóa đại chúng, bao gồm văn chương, âm nhạc, hội họa. Có thể thấy hình tượng hiệp sĩ Orlando đóng vai trò quan trọng nên Vivaldi chỉ lựa chọn viết nhạc dựa vào cốt truyện từ đoạn Angelica trốn thoát, nhằm dành đất cho cơn cuồng nộ của Orlando, bên cạnh lý do tác phẩm quá dài để chuyển soạn toàn bộ.
Dù là một linh mục, Vivaldi dường như vẫn hiểu rất rõ thứ quyền lực mềm có thể làm chao đảo mọi thứ ở bất kỳ đâu và khi nào, đó là tình yêu. Nhân vật Orlando là một ví dụ điển hình: chàng có sức mạnh phi thường, nhưng vì điên tình mà dùng sức mạnh sai mục đích. Chỉ có cặp đôi Ruggiero và Bradamant hạnh phúc, cái kết này dường như có đôi chút ngầm khen ngợi Ruggiero kiên trì và sáng suốt, trong khi Orlando điên tình mải mê phá hoại và giết chóc để thỏa cơn giận giữ.
Mặc dù con số 94 vở opera được Vivaldi nhắc đến trong thư gửi nữ hầu tước Bentivoglio bốn năm trước khi ông qua đời đôi khi bị xem là có phần “phóng đại”, song giới nghiên cứu cho rằng con số này có thể bao gồm những vở opera viết chung, viết mà không ký tên, và cả những vở opera mà ông đã tham gia dàn dựng. Vivaldi cũng nổi tiếng sáng tác nhanh - ngày nay vẫn còn lưu truyền giai thoại về việc ông sáng tác vở opera Tito Manlio ba hồi, dài hơn 180 phút, chỉ trong năm ngày. |
VĂN CAO
Sau triển lãm Duy nhất 1944 (Salon Unique), tôi về một căn gác hẹp đầu phố Nguyễn Thượng Hiền.
TRƯƠNG QUANG LỤC
Lần đầu tiên tôi quen biết nhạc sĩ Tôn Thất Lập là tại thành phố Hồ Chí Minh sau ngày thống nhất đất nước.
DƯƠNG BÍCH HÀ
Miền núi phía Tây Bắc huyện Minh Hóa ở Quảng Bình có nhiều nhóm tộc người cùng sinh sống như nhóm người Mày, Rục, Sách, Mã Liềng, A Rem (gọi chung là tộc người Chứt), và tộc người Nguồn (trước kia gọi là người bản địa Kẻ Sạt, Kẻ Xét, Kẻ Trem, Kẻ Pôộc bộ Việt Thường, nước Văn Lang).
TRÀ AN
Người ta gọi Trịnh Công Sơn là Sứ giả tình yêu, Kẻ du ca về phận người, hay Người tình mọi thế hệ… nhưng có lẽ với tên gọi mà nhạc sĩ Văn Cao đặc biệt yêu mến dành tặng ông: “Con người thi ca” thì chức danh ấy phù hợp hơn cả.
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG
I. Vài nét về dân ca Tà Ôi
Trong hệ thống phân loại, dân ca Tà Ôi có đến 9 làn điệu gồm: Cà lơi, Ba bói, Cha chấp, Xiềng, Ân tói, Babởq, Ra rọi, Roin, Ru akay. Mỗi làn điệu đều có những quy định, cách thức thể hiện khác nhau.
Hoàng Nguyễn hiện là giảng viên thanh nhạc Trường Cao đẳng Nghệ thuật Huế. Anh bước vào nghề hát từ năm 1968. Từ 1973 đến 1978 học thanh nhạc Nhạc Viện Hà Nội, sau đó chuyển về giảng dạy ở trường âm nhạc Huế. Năm 1981 đến 1985 học thanh nhạc tại Bungari. Với kỹ thuật thanh nhạc điêu luyện, Hoàng Nguyễn đã góp phần quan trọng vào thành công buổi trình diễn thanh nhạc Thính phòng đầu tiên tại Hội văn nghệ Thừa Thiên - Huế.
NGUYÊN CÔNG HẢO
Sau Đại hội tháng 01 năm 2013, vừa ổn định xong công việc tôi được nhạc sĩ Nguyễn Trung, Chi hội trưởng Chi hội Âm nhạc của tỉnh Bắc Ninh mời đi dự chương trình Liên hoan âm nhạc các tỉnh, thành phố kết nghĩa tại thành phố Huế vào tháng 4 năm 2013.
NGUYỄN XUÂN HOA
Tại Diễn đàn Nghệ thuật Châu Á - Thái Bình Dương (Forum of Asian and Pacific Performing Art) năm 1996 ở Hyogo, Nhật Bản, những nhạc công Nhã nhạc Huế đã có các buổi giao lưu, cùng biểu diễn với Nhã nhạc Nhật Bản; đồng thời một số nhà nghiên cứu Nhã nhạc của hai nước cũng đã có dịp trao đổi về mối quan hệ giữa Nhã nhạc Á Đông (Gagakư Nhật Bản, Ahak Hàn Quốc, Yayue Trung Hoa và Nhã nhạc Việt Nam).
Thất lạc suốt 150 năm - và bị hiểu lầm là tác phẩm của em trai bà – một bản nhạc táo bạo và phức tạp của Fanny Mendelssohn mới đây đã nhận được sự chú ý xứng đáng dù muộn màng. Hậu duệ cách bà sáu thế hệ kể lại câu chuyện.
Theo thông tin mới nhận được từ phía Cục NTBD, ca khúc “Nối vòng tay lớn” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã chính thức được cấp phép lưu hành và phổ biến rộng rãi trên toàn quốc.
Gần 1 tháng, sau khi Cục Nghệ thuật biểu diễn (NTBD) có công văn yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 ca khúc sáng tác trước năm 1975, công chúng yêu nhạc vẫn chưa hết băn khoăn. Mới đây, việc tìm thấy bản gốc ca khúc “Con đường xưa em đi” lại càng khiến dư luận băn khoăn hơn: Mất bao lâu để nhà quản lý hoàn tất việc đối chiếu giữa bản gốc và dị bản của ca khúc? Sau sự việc này, việc xác minh dị bản ca khúc nói chung sẽ được thực hiện ra sao?
Bà Kha Thị Đàng - vợ cố nhạc sỹ Châu Kỳ đã bật mí về con đường mòn xuyên qua một cánh đồng lúa mà bà cho rằng chính con đường này đã tạo cảm hứng cho chồng bà và nhà thơ Hồ Đình Phương viết lên ca khúc “Con đường xưa em đi”.
Nói đến văn hóa Quảng Bình, không thể không nhắc đến hò khoan Lệ Thủy. Với lối hát dung dị, mộc mạc và gần gũi, làn điệu dân ca này là món ăn tinh thần bao đời nay của người dân nơi đây. Những ngày qua, hò khoan Lệ Thủy đã vang lên giữa Thủ đô, tạo điểm nhấn trong chương trình “Quảng Bình trong lòng Hà Nội”.
Vừa qua UNESCO đã chính thức ghi danh công nhận di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Từng đứng trước nguy cơ mai một, nhưng giờ đây, những làn điệu Then không chỉ đã dần tìm lại được chỗ đứng của mình mà còn đang trên hành trình trở thành di sản văn hóa của nhân loại. Đó chính là kết quả của sự nỗ lực không ngừng của các cấp, chính quyền và các nghệ nhân, những người tâm huyết với Then.
Erik Satie (1866-1925) được các nhà nghiên cứu lịch sử âm nhạc ngợi ca vì đã có công mở đường tới chủ nghĩa tối giản trong âm nhạc cổ điển từ trước Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Cục trưởng Cục Nghệ thuật biểu diễn giải thích việc gửi văn bản gửi Sở VH-TT TP HCM yêu cầu tạm dừng lưu hành 5 bài hát đã cấp phép phổ biến để hướng dẫn các tổ chức, cá nhân thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật về quyền tác giả và quyền liên quan.