Sính danh và những hệ lụy xấu cho xã hội

14:52 22/07/2019

Việc xuất hiện hàng loạt các danh hiệu như “Nữ hoàng thương hiệu Việt Nam”, “Nữ hoàng văn hóa tâm linh Việt Nam”, “Nữ hoàng thực phẩm Việt Nam”… theo TS Bùi Hoài Sơn - Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam thì đây không chỉ là minh chứng cho căn bệnh “cuồng” danh hiệu, “loạn” danh hiệu dường như ngày càng tăng nặng mà hơn thế, nếu không có giải pháp “điều trị” triệt để sẽ đem tới nhiều hệ lụy xấu cho xã hội.

TS Bùi Hoài Sơn - Viện trưởng Viện Văn hóa nghệ thuật quốc gia Việt Nam

Giá trị thương hiệu quan trọng hơn cả chất lượng thực tế

- PV: Thưa tiến sĩ, việc xuất hiện quá nhiều các danh hiệu theo ông nguyên nhân bắt nguồn từ đâu ? 

- TS Bùi Hoài Sơn: Thực tế, người Việt chúng ta, không phải đến bây giờ, mà từ khá lâu rồi, nhiều học giả đã đồng thời phê phán rất nhiều về thói háo danh. Ngay từ những năm đầu của thế kỷ trước, các học giả như Đào Duy Anh trong “Việt Nam Văn hóa sử cương” xuất bản năm 1938 hay Nguyễn Văn Huyên trong “Văn minh Việt Nam” xuất bản năm 1944 cũng đã đề cập đến vấn đề này đủ để chúng ta thấy, đây không phải là vấn đề mới, mà dường như là một tính cách khá phổ biến của người Việt trong lịch sử cũng như hiện nay. Tất nhiên, không phải ai cũng có thói xấu này, nhưng những gì mà học giả Đào Duy Anh nói về người Việt là “hay khoe khoang, trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh”, theo tôi, cũng đáng để chúng ta xem xét khi nó có thể đúng với hầu hết các nhóm người Việt, bất kể sang hèn hay nghề nghiệp khác nhau. Có thể cách thức thể hiện điều này đa dạng, khác nhau mà thôi! Hiện chúng ta mới chỉ bàn nhiều về các danh hiệu nữ hoàng, hoa hậu, người đẹp, song việc theo đuổi các danh hiệu cũng xuất hiện trong nhiều lĩnh vực như nghệ thuật, giáo dục, nghiên cứu…

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì giá trị thương hiệu nhiều khi quan trọng hơn cả chất lượng thực tế. Điều đó có thể thấy rõ trên các chương trình quảng cáo, trên truyền thông. Từ chuyện về kinh tế chuyển hóa trở thành những câu chuyện của đời sống thật và nó không chỉ áp dụng đối với hàng hóa mà còn là câu chuyện cá nhân. Cá nhân nhiều người cũng cần thương hiệu giống như thương hiệu của hàng hóa bất chấp có thật hay không để nhằm phục vụ lợi ích của bản thân. Đấy là một trong những lý do căn bản tại sao người ta theo đuổi các danh hiệu như thế. 

Tôi cũng chứng kiến khá nhiều người không xứng đáng với những danh hiệu nhưng bằng mọi cách, họ vẫn cố để có được những danh hiệu không xứng đáng này. Hệ lụy của hiện tượng này không chỉ làm ảnh hưởng xấu đến công việc chung mà hơn thế, họ làm cho những người có năng lực, nhưng có thể vì lý do này hay lý do khác, không có được những bằng cấp, danh hiệu nên không được đặt vào đúng vị trí xứng đáng cảm thấy hụt hẫng, mất ý chí phấn đấu. Căn bệnh “sính danh” này nguy hại hơn khi người dân không thể phân biệt thật giả trong bằng cấp, danh hiệu, trong vị trí và trong công việc. 

- Theo ông làm thế nào để hạn chế và sau cùng là triệt tiêu được “căn bệnh” được cho là thâm căn này?

- Nếu không tìm nguyên nhân cơ bản thì sẽ không thể giải quyết được tận gốc vấn đề thương hiệu bởi lẽ nếu xóa bỏ danh hiệu này thì sẽ rất sớm xuất hiện danh hiệu khác, không hôm nay thì ngày mai.

Trong xã hội của chúng ta có nhiều điều thật giả lẫn lộn, không biết tin vào đâu nên nhiều người đã đánh đồng danh hiệu là thương hiệu. Họ mải miết săn kiếm bằng cấp, giấy chứng nhận hay những cái gì tạo thành thương hiệu cho cá nhân, để chứng minh cho phẩm chất, chất lượng của con người nào đó mà trong bối cảnh hôm nay việc kiểm định chất lượng rất khó khăn.

Ví như việc phong tặng danh hiệu, hay trao các giải thưởng có tính chất tôn vinh, thậm chí ngay các cuộc thi học sinh giỏi, sinh viên tài năng… góp phần lan tỏa các tấm gương tốt trong xã hội nhưng mặt khác tiêu cực là nó tạo ra hiệu ứng đam mê các danh hiệu, vô tình tạo thêm hiệu ứng sùng bái các danh hiệu. Vì thế, tại thời điểm này rất cần rà soát, chấn chỉnh việc trao tặng danh hiệu, việc vinh danh sao cho những người được tặng xứng đáng là tấm gương để mọi người hướng đến. Những người có danh hiệu đó phải cảm thấy tự hào để từ đó mỗi cá nhân đều ý thức được việc gìn giữ danh hiệu để luôn là tấm gương tốt định hướng cho đạo đức xã hội.

- Điều này có thể hiểu là việc tôn vinh và trao tặng giải thưởng, danh hiệu như thời gian qua là quá nhiều và dễ dãi?

- Chính sự cào bằng các danh hiệu đã gây ra những hỗn loạn thời gian qua. Hai nỗ lực khác nhau, phấn đấu khác nhau đáng lẽ phải có những vị trí, danh hiệu khác nhau, do các tổ chức có uy tín và trách nhiệm khác nhau đưa ra thì đáng lẽ hai danh hiệu đó cũng phải khác xa nhau về độ tín nhiệm cũng như giá trị xã hội… Song tại thời điểm này, do những trục trặc trong tổ chức, do có những kẽ hở trong quản lý mà một số tổ chức, cá nhân đã lợi dụng để trục lợi, mang tới những ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội.

Trong bối cảnh xã hội, mặt bằng dân trí hiện nay thì cần phải siết chặt quản lý không nên để “trăm hoa đua nở” như vừa qua. Tuy nhiên, đối với quản lý văn hóa thì vẫn nên theo hướng hậu kiểm. Việc áp quá nhiều nguyên tắc hoặc khuôn mẫu dễ vô tình dẫn tới việc ngăn cản sự phát triển tự do sáng tạo của xã hội.

Phải kiểm soát chặt việc tôn vinh, phong tặng danh hiệu
 

ảnh 2

Những kẽ hở trong quản lý khiến nhiều cuộc thi nở rộ như thời gian qua (Ảnh minh họa)


- Theo ông cần có các giải pháp như thế nào để không còn lẫn lộn đồng thau?

- Đầu tiên là cần nâng cao nhận thức xã hội trong việc nhận diện thương hiệu, danh hiệu. Từ nhận thức đúng về các thương hiệu, danh hiệu gắn với nỗ lực của bản thân, phải thực chất thì mới giảm bớt được việc tôn vinh nhầm, sai trong xã hội. Trong mỗi giai đoạn cụ thể có thể kiểm soát chặt hơn việc tôn vinh, để không tràn lan. Giải pháp truyền thông cũng đóng vai trò tích cực đối với nhận thức xã hội. Cần có việc nêu gương danh hiệu tốt nhưng cũng phải phê phán những việc, những danh hiệu chưa phù hợp để nâng cao nhận thức xã hội, đồng thời định hướng để những người tổ chức cũng như tham gia tôn vinh, xét tặng… không trượt dài vào các sai lầm.

Cùng đó, với mỗi công việc cụ thể các tổ chức, đơn vị cũng hạn chế lồng danh hiệu vào công việc. Ví dụ như đối với văn bản không cần phải ghi học hàm, học vị hay ghi danh hiệu NSND, NSƯT… chẳng hạn thì không cần thiết phải đưa những xưng danh đó đi kèm với tên của người phát biểu hay ký văn bản… Chúng ta đặt đúng vị trí của danh hiệu thì dần dần người dân sẽ hiểu và không cần mải miết trang bị cho mình các danh hiệu. Hay như việc bổ nhiệm hay tuyển lao động chẳng hạn, không lấy những danh hiệu làm thước đo chính bổ nhiệm các cán bộ mà phải sử dụng đúng năng lực, sở trường của cá nhân để tránh tình trạng không thi tuyển mà chỉ tuyển dụng bằng văn bằng chứng chỉ. Cách này cũng giảm thiểu việc tạo ra sức ép tìm kiếm các văn bằng, chứng chỉ, danh hiệu để đạt được vị trí nhất định trong xã hội…

 - Không chỉ là danh hiệu mà việc xưng danh gắn với định danh quốc gia Việt Nam cũng đang bị lạm dụng?

 - Ngôn ngữ có sự phức tạp mà không phải lúc nào cũng đưa ra các chế tài được mà phải bắt nguồn, đúc kết từ hiện thực cuộc sống để đưa ra các quy định phù hợp. Từ những vụ việc vừa qua cũng đặt ra câu chuyện về việc sử dụng, quản lý như thế nào đối với các biểu tượng, thương hiệu, xưng danh mang tính quốc gia. Theo tôi cần phải có suy nghĩ kỹ lưỡng, thấu đáo hơn, có quy định cụ thể hơn thay vì việc tùy tiện sử dụng như thời gian qua. Việc gìn giữ thương hiệu quốc gia, biểu tượng linh thiêng của đất nước… cũng là gìn giữ văn hóa.

- Theo ông có cần quy định trong văn bản mang tính chính thống? 

- Chắc chắn cần rồi nhưng đưa vào như thế nào thì cần phải tính bởi chỉ có văn bản chính thống thì mới có chế tài để xử lý các vi phạm. Ngôn ngữ thì có thể thay đổi qua thời gian, có thể ngày hôm trước thì không vấn đề gì nhưng nay thì trở thành kị húy và biết đâu thời gian sau nó lại không có vấn đề gì. Sự phức tạp này cần điều chỉnh một cách chính quy. Các sản phẩm hàng hóa gắn với địa phương thì gắn với bảo hộ thương hiệu. Nhưng giờ thương hiệu Việt Nam ai sẽ là người bảo hộ? Phải tính toán. Không áp đặt, máy móc nhưng cần phải xử lý để bảo vệ biểu tượng thiêng liêng của đất nước.

- Xin cảm ơn ông!

Theo Trúc Anh - ANTĐ

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Không chỉ bị tàn phá bởi thời gian, nhiều công trình, di tích - nhất là các đình, chùa - còn bị biến dạng qua các công cuộc bảo tồn, trùng tu mà ở đó những người trông coi di tích và những người làm công đức tự cho mình quyền được can thiệp vào chuyên môn, còn chính quyền sở tại thì cấp phép trùng tu, tôn tạo một cách đại khái, dễ dàng, trong khi vai trò của các nghệ nhân lại chưa được coi trọng đúng mức.

  • Quảng Trị được coi là một bảo tàng chiến tranh lớn, ở đó có những bảo tàng chiến tranh nhỏ, nơi ghi dấu ấn đau thương và hào hùng đã đi vào lịch sử.

  • Nhà thơ Phạm Tiến Duật năm 2002, khi vào tuổi 61, đã đưa ra mười tiêu chí để xác định “thế nào là nhà văn già”. Tỷ như nhà văn già là nhà văn thích đề tặng và chú thích, thích quản lý người khác mà không quản lý chính mình, thích chê bai xã hội, phàn nàn đủ thứ và tỏ ra mình là người lịch lãm, chỉ không biết chê chính cái mình viết ra…

  • Trong những ngày cuối tháng 5/2015, dư luận khắp nơi tỏ vẻ đồng tình với phát biểu tại Quốc Hội của Thiếu tướng Nguyễn Xuân Tỷ (Phó giám đốc Học viện Quốc phòng): “Tội tham ô, tham nhũng mà không tử hình thì không hợp lòng dân, bởi tham nhũng không phải là những người nhỏ mà đều là người làm to có chức có quyền, đục khoét công quỹ, bóc lột nhân dân. Làm cán bộ mấy năm mà trong nhà có vài ba trăm tỉ đồng, thậm chí cả ngàn tỉ đồng thì lấy ở đâu ra nếu không tham nhũng. Có một đội ngũ giàu rất nhanh, cưỡi lên đầu nhân dân, còn kinh khủng hơn địa chủ, tư sản ngày xưa”.

  • Khái niệm không gian văn hóa của các dòng sông đã rõ ràng và cụ thể khi liên quan đến quy hoạch cảnh quan kiến trúc của đô thị. Nhưng ngoài quy hoạch đô thị, không gian đó không chỉ gói gọn ở các điểm nhấn kiến trúc nhà cửa, cầu và cây xanh.

  • Khai thác các di tích văn hóa- lịch sử vào mục đích du lịch đang trở thành một hướng đi được quan tâm đầu tư của nước ta nói chung, Nghệ An nói riêng bởi có lẽ đó là cách hiệu quả hàng đầu để quảng bá những giá trị văn hóa của một vùng miền mà không cần phải tốn quá nhiều lời.

  • Cô bé Lolita dạo chơi đến Việt Nam gần đây đã làm nổ ra một sự “mất đoàn kết” không nhỏ trong giới dịch thuật. Thậm chí, có khi người ta chú ý đến chuyện nóng bỏng của “trường văn trận bút” nhiều hơn là chú ý đến vẻ đẹp của cô ấy, hay nói cách khác, giá trị của bản thân tác phẩm của Vladimir Nabokov.

  • Truyền thông tạo định kiến “người Israel chuyên đánh bom cảm tử”, “người Anh lãnh đạm và xa cách”, nhưng văn chương liên kết nhân loại bằng những câu chuyện giản dị. Chủ đề này được nói đến trong Những ngày Văn học châu Âu tại Hà Nội.

  • Không phải là những người đầu tiên nảy ra ý tưởng biến các khoảng đất trống ở Hà Nội thành sân chơi cho trẻ em nhưng họ là những người đầu tiên thực hiện thành công ý tưởng đó - chúng tôi muốn nói đến các bạn trẻ trong nhóm tình nguyện “Nghĩ về sân chơi trong thành phố” (Think Playgrounds - TPG).

  • Nhân dịp tái bản có sửa chữa Lolita, dịch giả An Lý, người biên tập bản tiếng Việt lần này,  có bài viết về tác phẩm mà lịch sử xuất bản của nó sang các thứ tiếng khác dường như chịu một lời nguyền cho những bản dịch lại, hoặc những bản dịch liên tục sửa chữa.

  • Văn hóa đọc của Việt Nam không hề suy đồi? Vấn đề là giới trẻ của chúng ta đang quan tâm gì và đọc gì?

  • Robert Lucius - giám đốc chương trình khu vực châu Á, Tổ chức Humane Society International, một tổ chức bảo vệ động vật quốc tế hơn 60 năm - đã trở lại Việt Nam trong một chuyến đi đặc biệt khi Việt Nam đã làm ông thay đổi cuộc đời của mình, từ một sĩ quan quân đội ông trở thành nhà hoạt động bảo vệ động vật.

  • Trách nhiệm giáo dục thuộc về ai? Gia đình, nhà trường hay xã hội? có nhiều người đổ lỗi cho đó là bị tác động bởi "mặt trái của kinh tế thị trường".

  • Con số 6.200 nói lên điều gì...!

    6.200 người bị nhập viện do ẩu đả trong dịp tết nguyên đán Ất Mùi 2015 nói lên điều gì, chẳng phải là bạo lực đang lên ngôi!

  • Xem lễ hội ở xứ ta dễ có cảm giác mình bị dẫm nát như những cánh hoa trên Đường hoa xuân. Lễ hội Việt hiện đại, không khéo, trở thành đồng nghĩa với từ vandalism – nôm na là hủy hoại các giá trị văn hóa nhân loại.

  • Tưởng lì xì con trẻ là... chuyện nhỏ, nhưng thật ra có rất nhiều điều đáng bàn quanh câu chuyện lì xì đầu năm.

  • Cần có một cơ quan kiểu như Trung tâm Bảo vệ quyền tác giả Âm nhạc Việt Nam trong lĩnh vực báo chí và các cơ quan báo chí cần phải liên kết lại trong cuộc chiến chống vi phạm bản quyền báo chí. Đó là giải pháp được nhiều đại biểu đồng tình nhất tại Hội thảo "Vấn đề Bản quyền báo chí trong kỷ nguyên số" được tổ chức ngày 28/1 tại TP.HCM.

  • Theo thống kê của Cục Xuất bản-in-phát hành, năm 2014 ngành xuất bản đã tăng 50 triệu bản sách so với 10 năm trước.

  • Đó là một trong những vấn đề đã được đưa ra thảo luận sôi nổi tại buổi tọa đàm với chủ đề “Những cuốn sách làm ô nhiễm môi trường giáo dục thanh thiếu niên - Thực trạng và Giải pháp”, do Hội xuất bản Việt Nam tổ chức vào sáng nay 21/1 ở TPHCM.

  • Tiếp theo Thánh Gióng, lại thêm một vị “Tứ Bất tử” nữa của người Việt Nam được dựng tượng. Đó là Đức Thánh Tản, hay Tản Viên Sơn Thánh, hay gọi một cách học trò là Sơn Tinh, gắn với truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh.