Sách của sách - Bình luận về một phát minh

16:30 23/10/2009
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

Nhà nghiên cứu văn học người Nga Alexander Genis (1953) - Ảnh: flickr.com

Khi đưa ra những thông tin trên lấy từ báo chí Mỹ, tôi muốn thử bàn về một vài phương diện của phát minh được nói đến ở đây. Cố nhiên, có thể tự an ủi rằng các nhà khoa học đã tạo ra một thứ đồ chơi điện tử không có ý nghĩa nghiêm túc. Nhưng xin nhớ cho rằng người đời cũng từng có thái độ y như vậy lúc đầu đối với điện ảnh, sau đó với phát thanh, sau nữa với truyền hình. Thế kỷ XX đã cho thấy sự tiến bộ kỹ thuật hồn nhiên xâm nhập vào các lĩnh vực thầm kín nhất của cuộc sống con người, làm thay đổi cả cách sống lẫn cách suy nghĩ của chúng ta.

Sách điện tử - đó là khâu tiếp theo trong chuỗi các thành tựu kỹ thuật biến văn minh công nghiệp thành văn minh hậu công nghiệp. Sự xuất hiện sách điện tử hoàn tất quá trình vi tính hóa văn học. Cái này đến lượt mình không thể không ảnh hưởng đến văn hóa của chúng ta, biến nó thực sự thành nền văn hóa hậu Gutenberg.

Thực chất, sách điện tử là sách của sách. Với thời gian nó sẽ thay thế các hiệu sách và thư viện - bởi lẻ trong một cuốn sách dã chứa đựng tất cả những cái còn lại. Dự án có ý đồ hoang tưởng này gợi nhớ một truyện ngắn của Borges. Nhưng về mặt kỹ thuật nó hoàn toàn thực hiện được. Và điều đó nghĩa là đã đến lúc phải xét đoán những sự thay đổi sống còn do nó gây nên. Nói cụ thể hơn, có ba vấn đề khiến tôi quan tâm - pháp lý, xuất bản và văn học.

Vấn đề cấp thiết nhất gắn với sự sở hữu trí tuệ. Để sách điện tử thực sự có hiệu quả, nó cần phải không bị lệ thuộc vào các trở ngại “copyright” (bản quyền). Điều đó có nghĩa các quyền tác giả sẽ thường xuyên bị đe dọa. Tìm sự thỏa hiệp giữa quyền lợi của tác giả và của độc giả - đó là vấn đề không chỉ phức tạp, mà tôi sợ là nó còn không giải quyết được. Đây không chỉ nói về sự ăn cắp đơn giản, dù việc dịch văn bản sang dạng số đã làm cho việc ăn cắp thành một việc kinh doanh nhẹ nhàng và không tránh khỏi. Tôi cũng không có ý nói đến chuyện đạo văn thông thường- chứng minh việc đó khá đơn giản. Cái khó là ở việc xác lập, nếu như nói chung có thể làm được việc đó, cái khung pháp lý cho quyền tác giả của tư tưởng.

Trong khi đó ở thế giới hiện đại lĩnh vực áp dụng quyền tác giả thường xuyên được mở rộng. Thử nhìn xem mục giới thiệu trong các phim Holywood được soạn kỹ đến thế nào. Nó không chỉ đề tên các nhà biên kịch trực tiếp, mà còn tên những người đưa ra ý tưởng phim, những người nghĩ ra các nhân vật chính, và những người thể hiện chúng.

Quá trình này hoàn toàn hợp qui luật. Thời chúng ta, ý tưởng, tư tưởng, quan niệm trở thành thứ hàng hóa có lợi nhất. Nhưng tai họa ở chỗ là hết sức khó xác định quyền tác giả trong lĩnh vực rất phù du của tư tưởng. Lấy tiêu phí nào để xét đoán tính độc đáo của ý đồ, sự mới mẻ của ý tưởng? Đâu là ranh giới giữa sự vay mượn có và không có chủ ý? Mà thế nào là vay mượn? E.T.Eliot có lần nói rằng các nhà văn thường thường bậc trung thì vay mượn, còn các nhà văn vĩ đại thì ăn cắp. Tôi đồ rằng đây là ông nói về Shkespeare...

Nói gọn lại, ngay không có sách điện tử thì vấn đề  sở hữu trí tuệ đã nhức nhối rồi. Nay với sự xuất hiện một thiết bị làm đơn giản đi rất nhiều việc truy cập mọi thông tin và việc trao đổi nó, thì vấn đề này càng trở thành một cơn ác mộng pháp lý. Thêm nữa lại càng tối tăm, đến mức vấn đề sở hữu trí tuệ vượt ra khỏi giới hạn pháp luật, bị đẩy vào lĩnh vực triết học.

Vấn đề là ở chỗ, mặc dù tư tưởng có thể là hàng hóa, nhưng dẫu sao đây vẫn là thứ hàng hóa đặc biệt. Thứ tốt nhất trong số những thứ do tinh thần con người tạo nên, không thuộc về ai cả. Hay - cũng thế thôi - thuộc về tất cả. Không một quyền tác giả nào bảo vệ được những câu thơ hay - mọi người đều thuộc lòng chúng. Ý nghĩa của mọi tư tưởng càng lớn, cơ hội sở hữu riêng của nó càng ít. Và những tư tưởng quan trọng nhất của thời chúng ta dường như không có quyền tác giả - chúng hòa tan vào bầu khí quyển thời đại, trở thành tài sản chung của mọi người. Về pháp lý, có thể điều này là bất hợp pháp, tuy nhiên không một tòa án nào có thể ngăn chặn được sự bóc lột trắng trợn các nỗ lực trí tuệ của người khác, sự bóc lột có tên gọi là “quay vòng tư tưởng”.

Dù bản thân tôi cũng đau khổ vì những sự sao chép ăn cắp, nhưng tôi không thể không nói: phần thưởng cao nhất cho tác giả là ở chỗ sở hữu trí tuệ của hắn được tước đoạt, được xã hội hóa. Và tôi thấy là lẽ công bằng khi các phần thưởng cao cả: tình yêu, gia đình, sáng tạo, thiên nhiên, niềm vui trí tuệ - đều không phải mất tiền.

Một vấn đề khác gắn với việc bước lên vũ đài sách điện tử - vấn đề số lượng in (tirage). Đung hơn - sự thiếu đi vấn đề đó. Không phải các nhà xuất bản, không phải các hãng văn học, không phải các ban biên tập, không phải các hội chợ sách sẽ quyết định mỗi bản thảo cần bao nhiêu độc giả. Sách điện tử nối thẳng độc giả với tác giả, xóa bỏ mọi khâu trung gian giữa họ (Tình hình này có phần gợi nhớ thực tế xuất bản ở nước ta. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên: ở Liên Xô thời đại hậu Gutenberg bắt đầu sớm hơn mọi nơi khác).

Tôi không biết ai sẽ được lợi từ sự dân chủ hóa triệt để ngành xuất bản. Có thể chỉ dám nghĩ là ở đây sẽ xuất hiện không ít chuyện sửng sốt. Các nhà văn có số lượng in nhiều triệu bản như Stiven King và Grisam (Mỹ) hay Dotsenko và Topol (Nga) sở dĩ thành công là nhờ quán tính và chiến lược thị trường. Hàng sản xuất hàng loạt bao giờ cũng dễ bán - nó có mặt trên mỗi quầy hàng. Sách điện tử có thể thay đổi tình hình đó. Nó làm cho tất cả các ấn phẩm - từ tranh khắc nguyên thủy đến sách thần bí, đều đến được với độc giả như nhau. Giống như khắp nơi hiện nay, việc thay thế nhu cầu hàng loạt bằng nhu cầu đẽo gọt đã dẫn đến sự tan rã của nền văn hóa nguyên khối. Một trăm kênh thì tốt hơn ba kênh, bởi vì truyền hình nhiều kênh không buộc phải chiều lòng tất cả, thậm chí chiều lòng nhiều người. Quá trình này, tất nhiên, là thuận lợi, bởi vì nó giúp nghệ sĩ có nơi ẩn náu tránh sức ép của đám đông.

Xóa bỏ vấn đề số lượng in bằng cách hạ giá sản xuất, rút lại ngắn nhất khoảng cách giữa tác giả và độc giả, sách điện tử mở ra một trang mới trong lịch sử ngành xuất bản. Có khả năng, nó là trang cuối cùng.

Vấn đề lý thú nhất gắn với sự xuất hiện sách điện tử là vấn đề văn học. Màn hình máy tính không thay thế trang giấy, mà vờ làm nó. Đó là sói đội lốt cừu. Chữ viết điện tử khác cơ bản chữ viết thường, hoàn cảnh đó không thể không tác động đến thứ văn học mà các nhà văn thế kỷ XXI sẽ viết, đúng hơn, sẽ tạo ra.

Xét đến cùng sách điện tử sẽ khác sách giấy không phải bằng cách tái hiện các chữ cái , mà bằng nội dung, bằng chiến lược trần thuật, bằng cấu trúc nghệ thuật. Ngay hiện nay đã có những tác phẩm quan trọng mà chỉ có thể đọc được chúng thực sự qua bản điện tử, chứ không phải qua bản trên giấy. Cố nhiên ý tôi muốn nói đến một tác giả người ta có quyền gọi là nhà văn đầu tiên của thiên niên kỷ thứ ba - nhà tiểu thuyết Serbi Milorad Pavic. Trong một bài phỏng vấn dài đăng trên tờ tạp chí Mỹ “Bình luận văn học mới”, Pavic có nói một điều rất quan trọng đối với đề tài đang bàn đến ở đây. Ông cho rằng, hiện nay đang diễn ra cuộc khủng hoảng không phải của văn học, mà của tự thân việc đọc. Loại tiểu thuyết bình thường đã ngừng làm việc, bởi vì nó không để cho độc giả tự do, nó buộc họ phải đọc mình từ đầu đến cuối. Thay cho điều đó Pavic viết những cuốn sách mà đơn giản là KHÔNG THỂ đọc như thế được. Tác phẩm nổi tiếng của ông “Từ điển Khazars” về nguyên tắc là phi tuyến tính, giống như mọi cuốn từ điển. Một tiểu thuyết khác, “Phong cảnh vẽ bằng trà’, được tạo nên như ô chữ: phải đọc nó khi theo chiều dọc, khi theo chiều ngang. Cuốn “Mối tình cuối ở Constantinople” được xây dựng như trò bói bài taro: trước khi đọc nó phải xáo trộn và cứ mỗi lần phải xáo lại. Thực chất, tất cả những cái đó không phải là văn học viết, mà là biến thể của trò chơi điện tử được Pavic nâng lên mức nghệ thuật cao. Vả chăng, bây giờ điều quan trọng đối với chúng ta không phải là những phẩm chất nghệ thuật hiển nhiên của các tác phẩm của Pavic, mà là việc chỉ dựa trên các trang sách điện tử mới có thể đánh giá chúng được đầy đủ. Cái ông làm không đặt được lên giấy. Các tiểu thuyết của ông là những nốt trong một bản nhạc chỉ có thể nghe thấy được nhờ một công cụ điện tử.

Thí dụ của Pavic cho thấy sự xuất hiện sách điện tử không chỉ trùng với cuộc khủng hoảng của văn học truyền thống, mà còn chỉ ra các con đường có thể giải quyết cuộc khủng hoảng đó. Con đường chính ở đây là sự thay đổi các quan hệ giữa độc giả và nhà văn. Hiện nay văn học máy tính đang xem xét lại chúng một cách triệt để. Nó bứt khỏi mặt phẳng trang in để nhấn độc giả vào văn bản như vào bể bơi. Tại đây, đi theo chiều đo thứ ba do sách điện tử mở ra, chúng ta có thể ở vào vị trí đồng tác giả. Toàn bộ nền văn hóa hiện nay đã vận động theo hướng “tương tác”. Những tác giả thính nhạy nhất với tiếng gọi thời đại đã thấy sự cần thiết phải lôi kéo độc giả vào các trò chơi của mình. Thứ văn học như thế đem lại nghĩa đen cho câu nói nổi tiếng, mà hóa ra là có tính tiên tri, của Nabokov: “Kiệt tác của mọi nhà văn là độc giả của hắn”.

Có thể, chính là cần phải tìm trong thứ văn học máy tính, trò chơi, tương tác này cách đưa thế hệ tiếp sau của lứa tuổi đầu xanh tuổi trẻ hiện nay, lớp người lớn lên không phải bằng sách mà bằng thông tin điện tử, trở lại văn học. Chúng ta không thể hình dung một thứ văn học nằm ngoài văn hóa sách, nhưng chỉ cần nhớ lại là ngôn từ không chỉ cổ xưa hơn sách, mà còn hơn chính cả chữ viết. Thêm nữa trong các xã hội chưa có chữ viết, văn học dưới dạng folklore, ẩn trong các huyền thoại, các nghi lễ ma thuật, đã đóng vai trò lớn hơn trong nền văn minh chúng ta. Sách chỉ là một trong những hình thức tồn tại của văn học. Mà điều đó nghĩa là có thể có một cái khác đến thay thế nó. Chẳng hạn, sách điện tử.

Ngân Xuyên dịch từ tiếng Nga
Tạp chí “Inostrannaya Literatura” số 10/1999


(142/12-2000)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.

  • TRẦN HUYỀN SÂMGeorge Sand (1804-1876) là một gương mặt độc đáo trên văn đàn Pháp thế kỷ XIX. Cùng thời với những cây bút nổi tiếng như: A.Lamartine, V.Hugo, A.Vigny, A.Musset... nữ sĩ vẫn tạo cho mình một tầm vóc riêng không chìm khuất. George Sand bước vào thế giới nghệ thuật bằng một thái độ tự tin và một khát vọng sáng tạo mãnh liệt. Với hơn hai mươi cuốn tiểu thuyết đồ sộ, G.Sand đã trở thành một tên tuổi lừng danh ngay từ đương thời. Dĩ nhiên, bà lừng danh còn bởi nhiều mối tình bất tử, trong đó có nhà thơ Pháp nổi tiếng A.Musset và nhạc sĩ thiên tài Chopin người Ba Lan.

  • PHẠM QUANG TRUNGCó lần, dăm ba người có thiên hướng lý luận chúng tôi gặp nhau, một câu hỏi có thể nói là quan thiết được nêu ra: trong quan niệm văn chương, e ngại nhất là thiên hướng nào? Rất mừng là ý kiến khá thống nhất, tuy phải trải qua tranh biện, không đến nỗi quyết liệt, cũng không phải hoàn toàn xuôi chiều hẳn. Có lẽ thế mới hay!

  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.