Sách của sách - Bình luận về một phát minh

16:30 23/10/2009
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

Nhà nghiên cứu văn học người Nga Alexander Genis (1953) - Ảnh: flickr.com

Khi đưa ra những thông tin trên lấy từ báo chí Mỹ, tôi muốn thử bàn về một vài phương diện của phát minh được nói đến ở đây. Cố nhiên, có thể tự an ủi rằng các nhà khoa học đã tạo ra một thứ đồ chơi điện tử không có ý nghĩa nghiêm túc. Nhưng xin nhớ cho rằng người đời cũng từng có thái độ y như vậy lúc đầu đối với điện ảnh, sau đó với phát thanh, sau nữa với truyền hình. Thế kỷ XX đã cho thấy sự tiến bộ kỹ thuật hồn nhiên xâm nhập vào các lĩnh vực thầm kín nhất của cuộc sống con người, làm thay đổi cả cách sống lẫn cách suy nghĩ của chúng ta.

Sách điện tử - đó là khâu tiếp theo trong chuỗi các thành tựu kỹ thuật biến văn minh công nghiệp thành văn minh hậu công nghiệp. Sự xuất hiện sách điện tử hoàn tất quá trình vi tính hóa văn học. Cái này đến lượt mình không thể không ảnh hưởng đến văn hóa của chúng ta, biến nó thực sự thành nền văn hóa hậu Gutenberg.

Thực chất, sách điện tử là sách của sách. Với thời gian nó sẽ thay thế các hiệu sách và thư viện - bởi lẻ trong một cuốn sách dã chứa đựng tất cả những cái còn lại. Dự án có ý đồ hoang tưởng này gợi nhớ một truyện ngắn của Borges. Nhưng về mặt kỹ thuật nó hoàn toàn thực hiện được. Và điều đó nghĩa là đã đến lúc phải xét đoán những sự thay đổi sống còn do nó gây nên. Nói cụ thể hơn, có ba vấn đề khiến tôi quan tâm - pháp lý, xuất bản và văn học.

Vấn đề cấp thiết nhất gắn với sự sở hữu trí tuệ. Để sách điện tử thực sự có hiệu quả, nó cần phải không bị lệ thuộc vào các trở ngại “copyright” (bản quyền). Điều đó có nghĩa các quyền tác giả sẽ thường xuyên bị đe dọa. Tìm sự thỏa hiệp giữa quyền lợi của tác giả và của độc giả - đó là vấn đề không chỉ phức tạp, mà tôi sợ là nó còn không giải quyết được. Đây không chỉ nói về sự ăn cắp đơn giản, dù việc dịch văn bản sang dạng số đã làm cho việc ăn cắp thành một việc kinh doanh nhẹ nhàng và không tránh khỏi. Tôi cũng không có ý nói đến chuyện đạo văn thông thường- chứng minh việc đó khá đơn giản. Cái khó là ở việc xác lập, nếu như nói chung có thể làm được việc đó, cái khung pháp lý cho quyền tác giả của tư tưởng.

Trong khi đó ở thế giới hiện đại lĩnh vực áp dụng quyền tác giả thường xuyên được mở rộng. Thử nhìn xem mục giới thiệu trong các phim Holywood được soạn kỹ đến thế nào. Nó không chỉ đề tên các nhà biên kịch trực tiếp, mà còn tên những người đưa ra ý tưởng phim, những người nghĩ ra các nhân vật chính, và những người thể hiện chúng.

Quá trình này hoàn toàn hợp qui luật. Thời chúng ta, ý tưởng, tư tưởng, quan niệm trở thành thứ hàng hóa có lợi nhất. Nhưng tai họa ở chỗ là hết sức khó xác định quyền tác giả trong lĩnh vực rất phù du của tư tưởng. Lấy tiêu phí nào để xét đoán tính độc đáo của ý đồ, sự mới mẻ của ý tưởng? Đâu là ranh giới giữa sự vay mượn có và không có chủ ý? Mà thế nào là vay mượn? E.T.Eliot có lần nói rằng các nhà văn thường thường bậc trung thì vay mượn, còn các nhà văn vĩ đại thì ăn cắp. Tôi đồ rằng đây là ông nói về Shkespeare...

Nói gọn lại, ngay không có sách điện tử thì vấn đề  sở hữu trí tuệ đã nhức nhối rồi. Nay với sự xuất hiện một thiết bị làm đơn giản đi rất nhiều việc truy cập mọi thông tin và việc trao đổi nó, thì vấn đề này càng trở thành một cơn ác mộng pháp lý. Thêm nữa lại càng tối tăm, đến mức vấn đề sở hữu trí tuệ vượt ra khỏi giới hạn pháp luật, bị đẩy vào lĩnh vực triết học.

Vấn đề là ở chỗ, mặc dù tư tưởng có thể là hàng hóa, nhưng dẫu sao đây vẫn là thứ hàng hóa đặc biệt. Thứ tốt nhất trong số những thứ do tinh thần con người tạo nên, không thuộc về ai cả. Hay - cũng thế thôi - thuộc về tất cả. Không một quyền tác giả nào bảo vệ được những câu thơ hay - mọi người đều thuộc lòng chúng. Ý nghĩa của mọi tư tưởng càng lớn, cơ hội sở hữu riêng của nó càng ít. Và những tư tưởng quan trọng nhất của thời chúng ta dường như không có quyền tác giả - chúng hòa tan vào bầu khí quyển thời đại, trở thành tài sản chung của mọi người. Về pháp lý, có thể điều này là bất hợp pháp, tuy nhiên không một tòa án nào có thể ngăn chặn được sự bóc lột trắng trợn các nỗ lực trí tuệ của người khác, sự bóc lột có tên gọi là “quay vòng tư tưởng”.

Dù bản thân tôi cũng đau khổ vì những sự sao chép ăn cắp, nhưng tôi không thể không nói: phần thưởng cao nhất cho tác giả là ở chỗ sở hữu trí tuệ của hắn được tước đoạt, được xã hội hóa. Và tôi thấy là lẽ công bằng khi các phần thưởng cao cả: tình yêu, gia đình, sáng tạo, thiên nhiên, niềm vui trí tuệ - đều không phải mất tiền.

Một vấn đề khác gắn với việc bước lên vũ đài sách điện tử - vấn đề số lượng in (tirage). Đung hơn - sự thiếu đi vấn đề đó. Không phải các nhà xuất bản, không phải các hãng văn học, không phải các ban biên tập, không phải các hội chợ sách sẽ quyết định mỗi bản thảo cần bao nhiêu độc giả. Sách điện tử nối thẳng độc giả với tác giả, xóa bỏ mọi khâu trung gian giữa họ (Tình hình này có phần gợi nhớ thực tế xuất bản ở nước ta. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên: ở Liên Xô thời đại hậu Gutenberg bắt đầu sớm hơn mọi nơi khác).

Tôi không biết ai sẽ được lợi từ sự dân chủ hóa triệt để ngành xuất bản. Có thể chỉ dám nghĩ là ở đây sẽ xuất hiện không ít chuyện sửng sốt. Các nhà văn có số lượng in nhiều triệu bản như Stiven King và Grisam (Mỹ) hay Dotsenko và Topol (Nga) sở dĩ thành công là nhờ quán tính và chiến lược thị trường. Hàng sản xuất hàng loạt bao giờ cũng dễ bán - nó có mặt trên mỗi quầy hàng. Sách điện tử có thể thay đổi tình hình đó. Nó làm cho tất cả các ấn phẩm - từ tranh khắc nguyên thủy đến sách thần bí, đều đến được với độc giả như nhau. Giống như khắp nơi hiện nay, việc thay thế nhu cầu hàng loạt bằng nhu cầu đẽo gọt đã dẫn đến sự tan rã của nền văn hóa nguyên khối. Một trăm kênh thì tốt hơn ba kênh, bởi vì truyền hình nhiều kênh không buộc phải chiều lòng tất cả, thậm chí chiều lòng nhiều người. Quá trình này, tất nhiên, là thuận lợi, bởi vì nó giúp nghệ sĩ có nơi ẩn náu tránh sức ép của đám đông.

Xóa bỏ vấn đề số lượng in bằng cách hạ giá sản xuất, rút lại ngắn nhất khoảng cách giữa tác giả và độc giả, sách điện tử mở ra một trang mới trong lịch sử ngành xuất bản. Có khả năng, nó là trang cuối cùng.

Vấn đề lý thú nhất gắn với sự xuất hiện sách điện tử là vấn đề văn học. Màn hình máy tính không thay thế trang giấy, mà vờ làm nó. Đó là sói đội lốt cừu. Chữ viết điện tử khác cơ bản chữ viết thường, hoàn cảnh đó không thể không tác động đến thứ văn học mà các nhà văn thế kỷ XXI sẽ viết, đúng hơn, sẽ tạo ra.

Xét đến cùng sách điện tử sẽ khác sách giấy không phải bằng cách tái hiện các chữ cái , mà bằng nội dung, bằng chiến lược trần thuật, bằng cấu trúc nghệ thuật. Ngay hiện nay đã có những tác phẩm quan trọng mà chỉ có thể đọc được chúng thực sự qua bản điện tử, chứ không phải qua bản trên giấy. Cố nhiên ý tôi muốn nói đến một tác giả người ta có quyền gọi là nhà văn đầu tiên của thiên niên kỷ thứ ba - nhà tiểu thuyết Serbi Milorad Pavic. Trong một bài phỏng vấn dài đăng trên tờ tạp chí Mỹ “Bình luận văn học mới”, Pavic có nói một điều rất quan trọng đối với đề tài đang bàn đến ở đây. Ông cho rằng, hiện nay đang diễn ra cuộc khủng hoảng không phải của văn học, mà của tự thân việc đọc. Loại tiểu thuyết bình thường đã ngừng làm việc, bởi vì nó không để cho độc giả tự do, nó buộc họ phải đọc mình từ đầu đến cuối. Thay cho điều đó Pavic viết những cuốn sách mà đơn giản là KHÔNG THỂ đọc như thế được. Tác phẩm nổi tiếng của ông “Từ điển Khazars” về nguyên tắc là phi tuyến tính, giống như mọi cuốn từ điển. Một tiểu thuyết khác, “Phong cảnh vẽ bằng trà’, được tạo nên như ô chữ: phải đọc nó khi theo chiều dọc, khi theo chiều ngang. Cuốn “Mối tình cuối ở Constantinople” được xây dựng như trò bói bài taro: trước khi đọc nó phải xáo trộn và cứ mỗi lần phải xáo lại. Thực chất, tất cả những cái đó không phải là văn học viết, mà là biến thể của trò chơi điện tử được Pavic nâng lên mức nghệ thuật cao. Vả chăng, bây giờ điều quan trọng đối với chúng ta không phải là những phẩm chất nghệ thuật hiển nhiên của các tác phẩm của Pavic, mà là việc chỉ dựa trên các trang sách điện tử mới có thể đánh giá chúng được đầy đủ. Cái ông làm không đặt được lên giấy. Các tiểu thuyết của ông là những nốt trong một bản nhạc chỉ có thể nghe thấy được nhờ một công cụ điện tử.

Thí dụ của Pavic cho thấy sự xuất hiện sách điện tử không chỉ trùng với cuộc khủng hoảng của văn học truyền thống, mà còn chỉ ra các con đường có thể giải quyết cuộc khủng hoảng đó. Con đường chính ở đây là sự thay đổi các quan hệ giữa độc giả và nhà văn. Hiện nay văn học máy tính đang xem xét lại chúng một cách triệt để. Nó bứt khỏi mặt phẳng trang in để nhấn độc giả vào văn bản như vào bể bơi. Tại đây, đi theo chiều đo thứ ba do sách điện tử mở ra, chúng ta có thể ở vào vị trí đồng tác giả. Toàn bộ nền văn hóa hiện nay đã vận động theo hướng “tương tác”. Những tác giả thính nhạy nhất với tiếng gọi thời đại đã thấy sự cần thiết phải lôi kéo độc giả vào các trò chơi của mình. Thứ văn học như thế đem lại nghĩa đen cho câu nói nổi tiếng, mà hóa ra là có tính tiên tri, của Nabokov: “Kiệt tác của mọi nhà văn là độc giả của hắn”.

Có thể, chính là cần phải tìm trong thứ văn học máy tính, trò chơi, tương tác này cách đưa thế hệ tiếp sau của lứa tuổi đầu xanh tuổi trẻ hiện nay, lớp người lớn lên không phải bằng sách mà bằng thông tin điện tử, trở lại văn học. Chúng ta không thể hình dung một thứ văn học nằm ngoài văn hóa sách, nhưng chỉ cần nhớ lại là ngôn từ không chỉ cổ xưa hơn sách, mà còn hơn chính cả chữ viết. Thêm nữa trong các xã hội chưa có chữ viết, văn học dưới dạng folklore, ẩn trong các huyền thoại, các nghi lễ ma thuật, đã đóng vai trò lớn hơn trong nền văn minh chúng ta. Sách chỉ là một trong những hình thức tồn tại của văn học. Mà điều đó nghĩa là có thể có một cái khác đến thay thế nó. Chẳng hạn, sách điện tử.

Ngân Xuyên dịch từ tiếng Nga
Tạp chí “Inostrannaya Literatura” số 10/1999


(142/12-2000)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.