Quan niệm của Xuân Diệu về phê bình văn học

10:50 15/05/2009
PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

Nhà thơ Xuân Diệu

Là nghệ sĩ bậc thầy, cùng với hệ thống quan niệm về nghệ thuật thi ca, trong những công trình vừa kể trên đây, Xuân Diệu còn thể hiện quan niệm nhất quán của mình về phê bình văn học, chủ yếu là phê bình thơ. Tìm hiểu những quan niệm ấy sẽ góp phần nhận thức và đánh giá một cách toàn diện hơn sự nghiệp văn học lớn lao của Xuân Diệu, đồng thời cũng có thể rút ra được những bài học bổ ích cho hoạt động phê bình, lý luận văn học của chúng ta hôm nay.

Trước hết, với Xuân Diệu, mỗi tác phẩm văn học nói chung, mỗi tập thơ nói riêng "là một cơ thể, một sinh vật", "một tác giả, một con người", do đó "khen hay chê chưa quan trọng bằng cảm thông, thấu hiểu"(2)

Nói "khen hay chê chưa quan trọng bằng thấu hiểu" có nghĩa là Xuân Diệu đã khẳng định sự cần thiết của khen, chê trong phê bình văn học. Bởi vì, theo ông, chê thơ mà không đúng thì rất có hại, sẽ làm nản người viết; nhưng khen thơ không đúng thì cũng rất có hại vì khuyến khích sự viết dở, và có một cái gì như là quảng cáo cho hàng không tốt, ngoài sự làm sai lạc khiếu thẩm mỹ của công chúng, còn phạm vào sự chân thật, sự thật thà. Như vậy, khen, chê một cách xác đáng, phê bình mới thực sự đóng vai trò hướng dẫn dư luận bạn đọc và thúc đẩy sáng tác. Cái hay, cái khó của phê bình văn học có khi cũng chính là ở chỗ này. Bởi lẽ, thái độ khen chê ấy không chỉ nói lên trình độ, tài năng, bản lĩnh mà còn thể hiện cả đạo đức của nhà phê bình. Dù muốn hay không thì phê bình cũng phải lựa chọn và đánh giá. Vốn đã từng tham gia giám khảo nhiều cuộc thi thơ, từng là Chủ tịch nhiều năm Hội đồng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam, Xuân Diệu càng thấu hiểu cái khó khăn của công việc này. Trong hơn nửa thế kỷ, vừa là nhà thơ hàng đầu, vừa là "nhà luật pháp" đầy uy tín của nền thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Diệu rất quan tâm đến việc khen, chê kịp thời để động viên phong trào sáng tác và khẳng định những thành tựu mới của từng tác giả, tác phẩm. Ý kiến của Xuân Diệu có lúc, có khi không tránh khỏi chủ quan, nhưng nhìn chung phần lớn đều được công chúng chờ đón, tin cậy. Ở những mức độ khác nhau, cả người đọc và người được phê bình đều lắng nghe, đón nhận.

Tuy nhiên, để phê bình thực sự thuyết phục, Xuân Diệu rất coi trọng niềm thông cảm, thấu hiểu giữa nhà phê bình và nhà sáng tác. Xuân Diệu còn nhấn mạnh và giải thích rõ hơn, thấu hiểu tư tưởng lập trường đã đành, còn cần phải thấu hiểu cả phương pháp cấu tứ, tạo hình, bút pháp, thói quen, cá tính của một nhà thơ. Mặt khác, như trên đã nói, mỗi tác phẩm là "một cơ thể", "một sinh vật", "một tác giả", "một con người” - cũng có nghĩa là, ở trên đời không có những nhà thơ trừu tượng, mà chỉ có những nhà thơ cụ thể, bằng xương bằng thịt, làm thơ trong một hoàn cảnh xã hội, gia đình, sức khoẻ cụ thể, trong một thời gian cụ thể của đời mình, tức là "một thi sĩ sống làm thơ, chứ không phải một thi sĩ trong óc người phê bình". Như vậy, nếu không dựa trên cơ sở cảm thông và thấu hiểu thực sự cặn kẽ, thì làm sao có thể khen, chê thoả đáng được.

Phê bình sở dĩ trở thành người bạn đường thường xuyên của văn học và không thể tưởng tượng được văn học mà thiếu phê bình vì công chúng muốn chiếm lĩnh tác phẩm nghệ thuật, chiếm lĩnh kho tàng văn hoá, họ rất cần sự môi giới của nhà phê bình nghiên cứu. Muốn làm được vai trò ấy, phê bình văn học không thể không hiểu thấu đáo về tác giả, tác phẩm và những kiến thức cần thiết khác.

Cũng theo Xuân Diệu, một niềm vui lớn mà văn học đưa đến cho tâm trí con người là sự hiểu biết, sự thấu hiểu, sự cảm thấu. Nếu được cảm thấu người ta sẽ sống lên gấp hai, gấp ba, nghĩa là sự sống tự nhân đến mức cao, là khám phá thấy loài người ở trong một bản thân mình. Vì thế, cần phải xác định, phê bình không phải là chỉ trích, nhà phê bình không phải là lên lớp bằng chủ quan của mình, mà nhiệm vụ chính của nhà phê bình trong quan niệm của Xuân Diệu là "giúp cho bạn yêu thơ hiểu một thời đại, một nền thơ, một nhà thơ".

Xuất phát từ quan niệm ấy, khi tìm về văn học quá khứ của dân tộc, Xuân Diệu luôn ý thức phải nói sao cho thấu lý đạt tình. Ông tra cứu, suy ngẫm từng bài thơ, ông gắn hoàn cảnh sáng tác với hoàn cảnh sống khi chưa có hướng đời của tác giả để cắt nghĩa một cách thấu đáo vẻ đẹp của nỗi buồn đau trong thơ ca xưa. Hoặc, khi "đọc một số ca dao kháng chiến của bộ đội", Xuân Diệu tâm sự:

"Tôi đọc đây, chưa phải như một nhà phê bình văn học, cân nhắc và đánh giá, mà như một người yêu mến, cảm thông - thực ra không phải tôi "đọc" mà ở đây, tôi sống với một số ca dao kháng chiến của bộ đội"(3)

Vậy là, "đọc" có nghĩa là "sống" với tác giả, tác phẩm. Sinh thời, trong phê bình, Xuân Diệu rất coi trọng việc đọc, đọc nhiều lần, nhiều cách để được cảm thấu bằng nhiều giác quan. Ông thường gọi cách đọc vội, đọc lướt không chịu lắng nghe kỹ tác phẩm là cách đọc "rất quan liêu", cách đọc "vô tâm" (Vô tâm chi lắm ai ơi! - Thơ hay rất kỵ cái người vô tâm). Ông còn dùng câu nói của Các Mác: một bản nhạc hay đến mấy cũng không có nghĩa lý gì đối với những lỗ tai không thẩm âm, và cả thành ngữ "đàn gảy tai trâu" để diễu người, và có khi cũng tự diễu mình chỉ vì vô tình không đọc kỹ mà bỏ sót cái hay cái đẹp hoặc chưa thấu hiểu đúng tác phẩm.

Phê bình văn học nói chung và bình luận thơ nói riêng còn thuộc phạm trù thẩm mỹ, phạm trù cái "gout", phạm trù khiếu thưởng thức. Nhà phê bình, người đọc thơ... có sở thích riêng của mình, còn người thi sĩ thì làm thơ với tư tưởng, tình cảm và với cả những tế bào của họ, không thể bảo anh ta đừng làm thơ với những tế bào riêng của anh ấy. Xuân Diệu phân tích cặn kẽ và cho rằng, đây là những vấn đề rất tinh diệu và cũng rất tế nhị. Nếu không cùng nhau thấu hiểu ở một quan niệm chung, một nhận thức chung, nếu không thực sự tôn trọng cá tính của nhau và thông cảm với nhau vì một chất lượng chung thì biết cãi nhau thế nào cho hết lẽ. Chính vì vậy, nhà phê bình không chỉ cần có lập trường quan điểm, vốn kiến thức, vốn hiểu biết nghề nghiệp kỹ thuật lao động thơ ca, mà còn phải có cái linh cảm của người nghệ sĩ chân chính, mới cảm được "cái hồn" toát ra từ tác phẩm; tức là phải có cái "linh nhãn" để "con mắt anh sắc hơn dao"; và theo ý Xuân Diệu, "con mắt sâu lại còn cao cường hơn con mắt sắc". Chỉ có như vậy, người phê bình mới tránh được bệnh hẹp hòi, mới vừa bộc lộ được cái "tạng" riêng của mình mà vẫn vượt qua được cái mình không được thích lắm, để phát hiện, biểu dương cái đẹp, cái khác lạ cùng với những ưu tú của một tập thơ, một thi sĩ. Xuân Diệu biểu đạt ý tưởng này trong niềm đầy cảm hiểu của người sáng tạo:

"Ta hãy khoan quy kết. Cái người lặn mò ở trong biển thực tại ra một con sò không thông thường quen mắt, người đó đã ở trong một cái thế chênh vênh rồi. Muốn cầu an, người đó có thể ném cái con sò hiện tượng kia xuống biển trở lại; nhưng vì yêu chân lý, muốn mở rộng tầm hiểu biết chung, người ấy đưa ra trình bày. Nếu chúng ta vội quy kết thì sẽ làm cho bao nhiêu người khác coi cái việc gặp những con sò lạ (chỉ lạ lúc đầu) là một cái tai vạ"(4)

Ở đây, dường như có sự gặp gỡ giữa Xuân Diệu, nhà thơ lãng mạn kiệt xuất và Nam Cao - nhà văn hiện thực sắc sảo nhất của nước ta, trong khát vọng "văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa ai có" (Đời thừa). Phê bình văn học, ở một góc độ nào đó, phải cùng chung khát vọng ấy mới thực sự là "người môi giới", là bà đỡ cho những công trình sáng tạo đầy trăn trở của người nghệ sĩ. Xuân Diệu thường yêu cầu nhà văn, nhà thơ không được "cầu an", càng ngày càng phải "nấu nướng cho tốt lành nhiều hơn nữa, thơm ngon nhiều hơn nữa", nhưng người đọc, người phê bình cũng không được "cầu an", phải "cải tạo cái lưỡi của mình" mới thưởng thức được cái hay, cái đẹp của tác phẩm.

Một quan niệm nổi bật của Xuân Diệu về phê bình văn học còn thể hiện ở yêu cầu "phê bình của chúng ta cần nêu được cái hay tuyệt với, hoàn mỹ của chúng ta phải vươn tới"(5)

Quan niệm trên xuất phát từ quy luật lao động sáng tạo của con người bao gồm cả quy luật lao động nghệ thuật, là bao giờ cũng hướng tới cái đẹp. Thơ vốn là tinh chất, là cái "nhụy" của đời sống, lại càng hướng tới sự biểu hiện một cách tập trung nhất vẻ đẹp tâm hồn, tình cảm con người. Vốn là nhà thơ lớn của niềm khát vọng "vô biên" và "tuyệt đích", trong phê bình, Xuân Diệu muốn hướng người đọc tới cái tuyệt vời, cái hoàn mỹ, tức là vẻ đẹp kết hợp hài hoà giữa giá trị nghệ thuật và giá trị nội dung trong tác phẩm. Đó cũng là cái bản lĩnh, bản sắc của tâm hồn và cuộc đời thi sĩ được biểu hiện qua văn chương của họ.

Bằng cảm thức thời gian, Xuân Diệu lập luận rằng, sở dĩ văn học phải hướng tới cái hay, cái đẹp vì dần dà qua sàng lọc của ngày tháng, những hạn chế sẽ không ai nhớ nữa, chỉ có những ưu điểm, ưu tú mới sống, vì nó thuộc về "cây đời mãi mãi xanh tươi"; công chúng độc giả thì ai cũng muốn hưởng thụ cái hay, cái đẹp. Mặt khác, từ thực tiễn sáng tạo, Xuân Diệu cũng thấy rằng, rất khó tìm những nhà thơ, kể cả những nhà thơ lớn mà không có khuyết điểm, nhược điểm. Nhiều khi nhược điểm còn nặng nữa; nhưng tất cả vấn đề nằm ở chỗ: nhà thơ có ưu tú gì không? Nếu có những ưu tú, ưu việt, thì công chúng có thể trừ bì cho cả những nhược điểm lớn, để chỉ còn lại phần đóng góp của nhà thơ. Có điều phần đóng góp của một tác phẩm nhất định không thể là trung bình, vì đứng về tác phẩm mà nói, trung bình là không còn lại được gì, nghĩa là không đóng góp.

Xuân Diệu thường hay nhắc đến lời than thở của nhà thơ Pháp nổi tiếng thế kỷ XIX Alfred de Vigny về "cái khuynh hương xấu xí của sự phê bình": "Họ thích làm sống những người chết và làm chết những người sống". Ông mong sao phê bình hôm nay phấn đấu đừng cho căn bệnh ấy tái diễn, phải đấu tranh trên hai mặt để làm sống lại đẹp đẽ những nhà văn có tài đã qua và biểu dương xứng đáng những nhà văn có tài đang sống.

Cùng với sáng tác thơ ca, trong cuộc đời lao động nghệ thuật của mình, sau "Thơ Thơ" "Gửi hương cho gió", Xuân Diệu đã dành nhiều thời gian và công sức cho hoạt động phê bình nghiên cứu văn học. Ông lắng nghe chăm chú "Tiếng thơ" từ khắp mọi miền đất nước; ông công phu, tỉ mẩn chọn lựa từ hàng trăm, hàng nghìn bài thơ để vừa chỉ ra những hạn chế, vừa biểu dương kịp thời phong trào sáng tác và thành tựu của các nhà thơ thuộc nhiều thế hệ. Ông sưu tầm, học tập ở ca dao vẻ đẹp chân chất, giản dị của cuộc sống và tâm hồn người lao động. Ông tìm hiểu một cách có hệ thống và làm sống lại đẹp đẽ những nhà thơ cổ điển dân tộc, từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát... đến những Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương, Nguyễn Đình Chiểu,...

Không phải ngẫu nhiên mà Xuân Diệu rất tâm đắc, mến phục nhà phê bình nổi tiếng của văn học Trung Quốc - Kim Thánh Thán (1950-1648). Phải chăng, Xuân Diệu đã bắt gặp ở đây quan niệm phê bình văn học gần gũi với chính mình. Phê bình dù đề cập đến xưa hay nay, đều không phải chỉ trả lời những vấn đề của quá khứ hoặc hiện tại mà còn là câu chuyện "tấc lòng" gửi đến mai sau; trong cái mục đích phục vụ vì mọi người, còn có cả "vì chính mình", vì "mình muốn làm duyên với người đời sau", muốn buộc người đời sau phải nhớ đến tên tuổi của mình.

Rõ ràng với ý thức như vậy, phê bình văn học sẽ là nỗi niềm canh cánh bên lòng, là một nhu cầu của nội tâm; sẽ không đơn thuần lý lẽ mà tràn đầy cảm hứng. Nó xa lạ với thứ phê bình máy móc, áp đặt vì những mục đích ngoài văn học.

P.N.T
(171/05-03)

------------------------------
1. Nhiều tác giả: Xuân Diệu - Con người và tác phẩm - Nxb Tác phẩm mới-H.1987, Tr.136
2. Xuân Diệu:
Dao có mài mới sắc - Nxb. Văn học-H.1963, Tr.142
3. Xuân Diệu:
Dao có mài mới sắc - Nxb. Văn học-H.1963, Tr.173
4. Xuân Diệu:
Dao có mài mới sắc - Nxb. Văn học-H.1963, Tr.126
5. Xuân Diệu, sđd, trang 135

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.

  • LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.

  • HỒ THẾ HÀPhân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của tâm sinh lý con người. Nó trở thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi cá thể người.

  • TRẦN THỊ THANH NHỊ “Tôi bị thôi thúc bởi một thứ khao khát hiểu biết có liên quan đến những quan hệ giữa người với người hơn là với các đối tượng tự nhiên.”(Sigmun Freud)

  • TZVETAN TODOROV(Cuộc tranh luận văn học giữa George Sand và Gustave Flaubert - qua đánh giá của Tzvetan Todorov)