Ảnh chỉ mang tính minh họa
Màu sắc đó hiện ra trên ngọn núi Ngự tuy không cao mà có đường nét thanh lịch và khỏe giống như chiếc bình phong, như người đàn ông nhã nhặn. Màu sắc còn hiện ra trên dòng nước không lấy chi làm sâu mà hiền hòa, trong sáng và uyển chuyển như cô gái “Sông Hương”. Phải chăng vì màu sắc thiên nhiên tại Huế xinh đẹp như vậy nên đã làm say đắm lòng người, đã tác động đến màu sắc do con người tạo ra trong đời sống hàng ngày qua những chiếc bánh, những chiếc lồng đèn ngũ sắc và nhất là qua những tà áo nhuộm màu phong phú… Màu sắc đó đã phản ánh vào trong nghệ thuật, song cũng có khi ngược lại, những hợp sắc của tạo hình lại được phổ biến trong đời sống. Cuối cùng, những màu do con người sáng tạo trở lại tác động chính mình. Đấy là nguyên nhân hình thành và nuôi dưỡng năng khiếu thẩm mỹ và thị hiếu màu sắc của con người Huế. Trong quá trình tác động qua lại không ngừng giữa người và màu sắc, dần dần con người Huế đã nắm được quy luật màu sắc, đã xây dựng những quy tắc, những phương thức thể hiện những bảng tính hợp sắc… dùng để vận dụng trong sáng tác. Do đó, màu sắc Huế mỗi ngày mỗi được nâng cao. Điều vừa nói không phải là giả thiết mà là sự thật. Bởi gần đây, tôi đã xây dựng được một bảng tính những hợp sắc tương phản, dựa trên cơ sở “Ngũ sắc của Huế” và dựa trên quan niệm về “âm dương” của các cụ thường trao đổi với nhau mà tôi được nghe khi mình còn nhỏ. Đáp số trong bảng ấy, không những phù hợp với những hợp sắc của nghệ thuật thêu thùa (1) và nghệ thuật pháp lam Huế (2)… mà còn phù hợp với những cặp màu trong “dĩa khoa học” của Rood (3) là dĩa tìm thấy những sắc tương phản chính xác qua chứng minh bằng những thử nghiệm. Lại nữa, bằng vào những hợp sắc thường tái hiện trong nhiều tác phẩm và trong những loại hình nghệ thuật cổ truyền tại Huế, tôi nghĩ rằng, nhất định người xưa đã tìm được bản tính màu sắc cách đây gần hai thế kỷ. Riêng về dạng xây dựng của nó có giống với bản tính của tôi hay không là điều kiện chưa rõ mà cũng không đáng cho ta đặt thành vấn đề. Trong phạm vi bài này, không cho phép tôi nói rộng và dài dòng mà khoanh vùng trong phạm vi về y phục nhằm để giới thiệu với bạn đọc vài nét liên hệ đến thị hiếu màu sắc của người Huế cách đây hơn nửa thế kỷ. Thuở ấy, trong những ngày bình thường tại Huế, màu sắc của y phục thường hiện ra rất khiêm tốn, gần như chỉ có trắng và đen. Đôi lúc, xen vào một số tà áo tím mà thôi. Nét đặc biệt của giới phụ nữ thời đó là rất hiếm thấy xa lìa chiếc nón bài thơ bằng lá nõn nà. Nhất là với tà áo trắng thì người con gái Huế luôn luôn gắn liền với nó dù là trong những lúc nấu nướng, giã gạo… ở trong nhà. Hoặc đi buôn thúng bán bưng ngoài chợ và kể cả lúc gánh than đi bán, cũng không thay đổi sắc áo này. Trừ ra, cô lái đò vùng ven đô mới kết thêm trên bộ quần áo trắng tinh, những miếng vải đen để tiện thay những nơi thường hay bị rách do động tác chèo thuyền của mình. Đồng thời cũng để tạo ra một kiểu y phục xinh đẹp, sinh động trên dòng sông Hương. Đối với màu tím, phụ nữ Huế quan niệm đó là một sắc trang nhã. Trông không buồn mà chỉ như mỉm cười. Không quá nồng nàn như bông lài mà thoang thoảng như hương lan thanh đạm và tế nhị. Vì vậy, đàn bà con gái thường mặc màu tím trong những khi giao tế bình thường hay trong những ngày kỵ giỗ (sau thời kỳ hết tang). Và nữ sinh thường chọn màu này để làm đồng phục. Soi màu này qua chiếc “kính khoa học”, tím là sắc lạnh, là sắc thuộc âm, nằm dưới cùng trong quang phổ, phát ra bước sóng ngắn và sức sáng nhẹ nhàng… Điều vừa trình bày, chứng tỏ ý thức thẩm mỹ của chị em phụ nữ xứ này qua việc chọn màu tím để ví với đức tính của mình thì thật là tinh tế. Do đó, đã sinh ra từ ngữ “màu tím Huế”. Về y phục đàn ông, con trai, trình bày khá đơn giản. Trong nhà, mặc áo quạ trắng (4) và quần dài trắng có thêm chiếc dây lưng nguyên khổ bằng thao để mộc hay nhuộm màu nguyệt bạch (5) rủ xuống gần đến đầu gối. Cũng vì dây lưng này mà thuở nhỏ tôi thường bị bà tôi la rầy, bởi không buộc nó mỗi lần đá kiện: “Con vật còn có cái đuôi để che, đàn ông con trai mà thiếu dây lưng thì coi răng cho được”. Theo thông thường, lúc tiếp khách, khi đi dạo phố hay cúng kiếng… mọi người đầu bịt khăn và mặc áo dài đen. Đến ngày hội, ngày tết, nhà nhà đều mở rương lấy ra những áo quần còn mới, tiết ra mùi thơm như bông cau trong vườn lúc tinh sương, hoặc có mùi thơm như hoa mù u vào những đêm trăng sáng. Đó là mùi “hương bài”, là những cọng cỏ thơm, những lát trầm hương thái mỏng chứa trong những bao giấy hay bao vải thưa theo hình chữ nhật dài giống như tấm thẻ bài. Cũng trong những ngày vui ấy, từ thôn quê đến thành thị đều nhuộm thắm những sắc tươi đẹp: Ông già râu tóc bạc phơ; toàn bộ áo quần, khăn giày đều là những màu thiên về đỏ. Con trai, đàn ông còn trẻ mặc áo xanh sẩm, lót màu cổ đồng (6). Các bà cụ ưa chít khăn màu lục, mặc áo màu lá cam, bày ra chút áo bên trong màu da lang (7) thật thắm. Đàn bà, con gái thường chọn những áo cặp đôi như màu lát gừng và bông bèo, màu tường vi và nguyệt bạch, màu mỡ gà và xanh da trời… Trong lễ cưới, cô dâu thường mặc cặp áo điều lục (8) và bà bưng quả hộc mặc áo rộng xanh, chít khăn hỏa hoàng (9). Những cặp màu của y phục, như điều lục, xanh và hỏa hoàng, xanh sẩm và cổ đồng, lục và da lang, lát gừng và bông bèo v.v…, đều là những hợp sắc tương phản và chính xác. Chúng vừa đẹp lại vừa thể hiện được nội dung phù hợp với thời bấy giờ, tùy theo mỗi lứa tuổi và còn thích hợp với nam tính hay nữ tính: - Màu đỏ gây ấn tượng mạnh và vui nên trong những bữa tiệc thọ, tiệc cưới tiệc khao… màu nầy không thể thiếu được trên những quà chúc mừng và còn giữ vai trò chủ yếu để trang hoàng bên trong và bên ngoài nơi tổ chức lễ vui… Do đó, con cháu may sắm sắc đỏ là nhằm chúc các cụ sức khỏe, sống lâu và sống hạnh phúc trong tuổi già. - Đàn ông, con trai thuở ấy thừa biết rằng, theo một số sách vở thì xanh là màu thuộc âm, song vẫn chọn sắc nầy làm áo cho mình. Bởi vì, họ dựa vào sự rung động trung thực trước một màu nào đó qua tình cảm mang tính tư duy nghệ thuật. Họ so sánh giữa các màu nên nhận thấy: tuy đỏ là màu có cường độ mạnh, có chất “dương tính” song trông quá rực rỡ nên thiếu sự khiêm tốn, nhã nhặn của người con trai hay đàn ông trẻ tuổi. Còn màu cam, màu vàng thì rất sáng chói. Và những màu đọt chuối, lá cam, hoa cà, tím Huế thì thật dịu dàng nên dành cho phụ nữ. Do đó, chỉ có xanh là màu thích hợp nhất đối với họ. Người đàn ông đứng tuổi thường dùng màu xanh nguyên sắc. Tuổi càng trẻ, màu nầy càng sẫm xuống để làm đậm đà chất “nam tính”. - Giới phụ nữ thường có thị hiếu dùng những sắc tươi thắm. Các bà cụ dù không thoát khỏi sự ưa thích vừa nói song lại tìm những màu thiên về sắc lục trông thật mát mẻ, êm dịu như thảm cỏ mùa xuân. - Các cô gái và đàn bà còn trẻ thường mến những sắc áo trong sáng, non nẻo. Nói cách khác, là dùng những hợp sắc tương phản có độ “cao vút”, “lanh lảnh” và điều tiết “độ nhân” thật nhẹ nhàng… Nói tóm lại, trong những sắc áo vừa nói, thể hiện một số nét đặc thù như sau, có liên hệ đến quan niệm và thị hiếu màu sắc của người Huế thuở trước: - Màu sắc của y phục Huế có sự tác động qua lại giữa nó và màu sắc nghệ thuật như đã trình bày ở phần trước. Vì vậy trong áo quần thường xuất hiện những hợp sắc tương phản trông thật xinh đẹp và lộng lẫy. Tuy vậy, bởi đặc trưng của mỗi loại hình nên màu sắc của y trang thường trình bày khá đơn giản. Còn màu sắc của nghệ thuật thêu thùa hay pháp lam Huế… có dạng phức tạp và biến dị vô cùng. - Về ý thức chọn lựa những sắc áo, người Huế biết gạn lọc những gì là tinh hoa trong sách vở để vận dụng cho phù hợp với tình cảm thẩm mỹ của mình. Bởi thế, đàn ông con trai thì dùng xanh và đen là những sắc thuộc âm. Ngược lại, đàn bà con gái thì chọn trắng là sắc thuộc dương để may quần áo thường dùng. Đã có lần, tôi đem điều mâu thuẫn vừa nói để hỏi thì một cụ nổi tiếng là thâm nho giải thích: “Đen trắng là những sắc biểu tượng cho âm dương, là điều không ai chối cãi. Song ta phải biết áp dụng hay vận dụng đúng chỗ, đúng lúc, chứ không nên câu chấp hình thức của sách vở mà áp đặt bừa bãi…” Có lẽ nhờ quan niệm phóng khoáng như vậy nên người Huế thời trước đã không khai thác đen trắng và màu sắc trên cơ sở thuần lý, thuần cảm tính hay thuần ước lệ… Đối với chiếc áo thường dùng trong việc giao tế hàng ngày, người đàn ông con trai Huế vẫn kế thừa sắc đen truyền thống của người xưa. Bởi vì sắc ấy có độ đậm nhất nên tạo ấn tượng trang nhã, phân minh của nam tính. Riêng về giới nữ tại Huế, đã lựa chọn cho áo quần bình thường của mình một sắc mới, đó là trắng, là vì trắng có độ sáng trong trẻo, nhẹ nhàng làm ta liên tưởng đến sự tinh khiết, trong trắng của người phụ nữ Huế. Sau hết, những sắc áo Huế thời ấy còn có thêm điểm đáng kể là không hướng đến vẻ đẹp “trống rỗng”. Cứ mỗi tà áo màu thường chứa đựng một nội dung phong phú, phù hợp với quan niệm, với thị hiếu màu sắc dành cho từng lứa tuổi, hoặc từng thuộc tính nam hay nữ. Nhờ đó, ta có thể rút ra trong ấy những điều như sau: - Đối với đàn ông, tuổi càng già càng thích những màu mạnh, rực rỡ hoặc đậm đà. Tuổi càng trẻ, càng chọn những màu thật sẫm, hầu thể hiện sự nhã nhặn, khiêm tốn của “phái” nam. - Đối với giới nữ, các bà càng lớn tuổi, càng thích những sắc thật thắm nhưng trông dễ chịu, mát mắt. Tuổi càng trẻ càng ưa những màu dịu dàng, tươi và sáng. Tôi nghe các cụ kể lại và những sắc áo thời trước nữa thì so ra có sự đổi mới (10), song luôn luôn có sự góp mặt của nội dung. Theo đó, sự đổi thay này không phải là cái si mê, nhắm mắt đuổi theo cái mốt của thời trang mà đôi khi có thể đem lại vẻ lố lăng hay xấu xí. Lý do đem lại sự đổi mới trong màu sắc y phục Huế là bởi vì có sự cầu tiến, có sự nâng cao về mỹ cảm của quần chúng. P.Đ.T (2/8-83) -------- 1. Năm 1981, Viện Bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh (tại Thảo cầm viên) có trưng bày “Y phục vua quan thời Nguyễn”. Trong những đồ thêu ấy, trình bày những hợp sắc tương phản chính xác và phương thức “hòa trộn trong thị giác”.. gần giống như trong pháp lam Huế. 2. Xin xem: Quanh pháp lam Huế, suy nghĩ về màu sắc. Bài của P.Đ.T đăng trong tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật - số 3, năm 1982. 3. Những cặp màu tương phản trong “dĩa khoa học” có liên hệ đến sinh lý thị giác nên trông vừa hấp dẫn, lộng lẫy vừa hài hòa. 4. Một loại áo cụt có tà dài đến giữa đùi, tay dài, cổ cao, vị trí gài nút nằm ở giữa kể từ sống áo đến nách áo. 5. Màu xanh lục và lạt. 6. Cổ đồng: màu vàng sẫm giống như đồng cũ. 7. Da lang: màu đỏ tím như vỏ khoai lang. 8. Điều là đỏ, lục là màu lục xanh. 9. Hỏa hoàng: màu vàng cam giống như màu lửa vàng. 10. Khăn đóng đen thay khăn chít màu huyền vì hợp với kiểu tóc “cúp” ngắn và dễ dùng giống như đội mũ. Hoặc vì ngày trước, chưa dùng áo ấm, áo len nên phải mặc áo cặp ba. Do đó, màu sắc cũng trình bày khác: lá cam, hồ thủy và đỏ là tiền thân của cặp màu lục điều… |
JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)
NGUYỄN QUANG HÀ Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.
HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".
XUÂN HUY "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"
TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.
LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.
HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".
NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.
THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.
QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.
ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét: Rõ ràng trong ngọc trắng ngà Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên (Nguyễn Du)
NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.
VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.
NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).
NGUYỄN QUANG SÁNG Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.
TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…
HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.
NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.
MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...
NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!