NGÔ ĐÌNH HẢI
Trên núi, có cây cỏ, chim muông. Có ngôi chùa nhỏ. Trong chùa có tượng Phật, có sư. Tất cũng có mõ chuông, tụng niệm.
Minh họa: Nhím
Sớm mai, sư ngồi công phu dưới gốc cây lớn. Đêm chưa hết, ngày chưa lên. Sương nằm trên lá, đọng lại thành hạt, rơi xuống. Ngang qua sư, chợt dừng lại hỏi:
- Trái tim của đá ở đâu?
Sư đang tọa thiền. Không thấy, không nghe, không nói.
Sương lơ lững đợi. Rồi hạt khác nối tiếp, tuần tự theo nhau, thảy đều dừng lại hỏi. Âm thanh mỗi lúc mỗi lớn.
Sư mở bừng mắt, nhìn màn sương dầy đặc trước mặt, thở dài:
- Ở trong con người...
Sương nghe xong, cùng lao xuống đất, vỡ tan.
Một cơn gió thổi, chiếc lá vàng rời cành, lơ lững. Sư đưa tay đón, trên lá còn sương. Đem đặt lên phiến đá ướt đẫm những hạt sương khác gần đó. Rồi ngồi im lặng nghe đối đáp.
Sương hỏi:
- Trái tim của đá ở đâu?
Đá trả lời:
- Đá không có tim.
Lại hỏi:
- Sao đá có nước mắt?
- Không phải của đá, là của thiên hạ. Nước mắt thoạt nhìn giống nhau, nhưng nặng nhẹ, nhiều ít khác nhau...
- Khác chỗ nào?
Đá đáp:
- Nước mắt kẻ dưới thường nặng và nhiều, vì gần đất, dễ thấm. Bao nhiêu cũng không đủ. Nước mắt kẻ trên thường nhẹ và giả, nên khó chạm đất. Kẻ trên cao nữa thì không có nước mắt, như đá vậy.
- Không buồn vui gì sao?
- Lạnh, tối của đêm. Nóng, sáng của ngày. Buồn vui có thay đổi được gì đâu!
Đêm tan, ngày tới. Nắng lên. Sương lẳng lặng bốc hơi. Đá nhìn theo không từ giã.
Đã tới thời kinh sáng. Sư đứng dậy, cúi nhặt chiếc lá. Lá hỏi:
- Ly biệt là gì?
- Là lẽ tự nhiên của trời đất.
- Còn tịch mịch?
- Là lẽ tự nhiên của ta.
- Còn lẽ tự nhiên của lá?
- Lá sinh ra là để rụng.
Nói rồi mở tay. Trái tim sư không kịp suy nghĩ, rời khỏi lồng ngực, ra theo. Lá xoay vài vòng, đáp xuống đất, mang theo trái tim sư trên lưng.
Sư chậm rãi vào chùa.
Ánh sáng trèo dần lên phiến đá. Soi thấy tim loài người, đang lúc nhúc bò trên đó. Sợ hãi, chòi đạp lên nhau, tìm đường chui vào bên trong. Càng lúc càng đông.
Lẽ tự nhiên trốn biệt.
Phiến đá bật khóc, nước mắt không có. Chỉ có nỗi đau làm thành những vết nhăn hình trái tim.
Trái tim của đá.
N.Đ.H
(SHSDB28/03-2018)
NGUYỄN VĂN DŨNGTôi không tin rằng một cô gái đẹp thì lúc nào cũng đẹp. Sông Hương cũng thế. Sông Hương là quà tặng ưu ái của Thượng đế dành cho kẻ phàm trần.
NGUYỄN HỮU THÔNGĐêm thêm như một dòng sữa.Lũ chúng em, âm thầm rủ nhau ra trước nhà.Đêm thơm, không phải từ hoa,Mà bởi lòng ta thiết tha tình yêu thái hòa.Đời vui như men sayNgọt lên cây trái..
NGUYỄN XUÂN TÙNGSống lạc quan yêu đời, luôn luôn làm chủ được những suy nghĩ, tình cảm và hành động để tự thắng mình trong mọi hoàn cảnh là một phẩm chất cao đẹp của Bác Hồ.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGỞ Huế hình như không có mùa thu, mùa thu chỉ ghé lại thành phố giữa một mùa nào đó, mùa hè chói chang hay mùa đông rét mướt. Vì thế, bao giờ người ta cũng đón chào mùa thu bằng nỗi vui mừng đến với một người thân đi xa mới về để lại vội vã ra đi, bằng một cái mà nhạc sĩ tiền chiến Đặng Thế Phong gọi là “Con thuyền không bến”. Trên sông Hương, hình như thường có nỗi bơ vơ chờ sẵn những tâm hồn lãng tử quen xa nhà từ vạn cổ.
TRẦN THÙY MAI“Khuôn mặt em đâu phải chữ điền, Trúc không che ngang mà che nghiêng”
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGCái tin anh Phương mất đột ngột đến với tôi lúc 11 giờ đêm, qua giọng rã rời nghẹn ngào của nhà thơ Lương Ngọc An báo Văn nghệ, lúc tôi đang “dùi mài kinh sử” ở khu ký túc xá trường Đại học Y Hà Nội để lấy cho xong cái bằng Thạc sỹ.
Hành trìnhĐã từ lâu tôi cứ muốn đi núi Tuý Vân để tìm hiểu xem sao nó được vua Thiệu Trị liệt vào hàng thứ 9 trong “Thần kinh nhị thập cảnh”.
Trước năm 1945, mỗi lần đi qua Ái Tử, tôi không khỏi lo sợ… Một sự lo sợ mơ hồ. Còn vì sao mà sợ thì cũng chẳng biết.
Ngay lần đầu tiên gặp ông đã đầy kỷ niệm. Đại đội tôi giao quân bên bờ một con suối đẹp cách sông Hương không bao xa. Anh Nguyễn Châu trưởng ban quân lực Thành đội nhận quân xong, ông đến bắt tay từng người.
Tôi vừa đến vùng Bắc Tây Nguyên được mấy hôm thì gặp địch càn quét. Hôm đó tôi định vào cơ quan xã Đaktô để làm việc không ngờ gặp địch dọc đường, tôi tạt vào rừng và nhắm hướng trở lại đơn vị, nhưng càng đi càng lạc sâu vào rừng thẳm.
Rời Bắc Hải chúng tôi bảo nhau từ giờ trở đi sẽ chỉ ở khách sạn chứ ở nhà người quen có cái vui nhưng cũng gây phiền toái cho bạn bởi chúng tôi đi chơi bất tử chẳng có giờ giấc nhất định nào.
Có một lão ngư kiêm lão nông suốt mấy chục năm trời vắt mồ hôi thành muối, tưới mồ hôi thành sông hồ mà mảnh vườn nhà vẫn cằn khô, chiếc thuyền nhà vẫn không tanh mùi cá biển. Quang cảnh vườn nhà cứ một mùa xanh lại ba mùa rụng lá, khô cành. Vợ chồng con cái chỉ thấy mắt chẳng thấy mồm. Xung quanh hàng xóm cũng chung hoàn cảnh.
Đấy là vào khoảng cuối chiến dịch Điện Biên Phủ – 1954. Đơn vị chúng tôi (đại đội 410 – đội 40 – TNXP Trung ương) được điều đi nhận nhiệm vụ mới.
1. Cô bạn cùng cơ quan nghe nói tôi “có tay nuôi người”, lại quen biết giao du rộng rãi nên có ý nhờ tìm một người giúp việc nhà cho vợ chồng cô em gái.