PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Bước chân vào con đường nghiên cứu văn học và hòa mình vào trào lưu lý thuyết đang trở nên thời thượng, chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism), nhưng Phan Tuấn Anh không biến nó thành cái “mác” để thời thượng hóa bản thân.
Trải qua những bước tiến bài bản, vững chãi từ lí thuyết, với tư duy hệ thống và khả năng áp dụng lí thuyết vào thực tiễn đời sống văn học đương đại vô cùng sôi động, anh đã chứng tỏ mình là nhà nghiên cứu hậu hiện đại nhiều triển vọng. Nghiên cứu văn học từ lí thuyết hậu hiện đại, hiển nhiên không phải là áp một bộ khung lí thuyết thô cứng, vô sinh vào các hiện tượng văn học phong phú, hữu sinh, để vô hình trung tái kiến tạo các đại tự sự. Với Phan Tuấn Anh, đó thực chất là sự thể nghiệm bản thân vào những làn sóng của một hệ hình văn hóa mới. Trong quá trình thể nghiệm ấy, anh chọn cho mình một người bạn đồng hành khổng lồ, đại văn hào Mĩ Latin G.G.Márquez, Nobel Văn chương 1982. Cuốn sách đầu tay vừa mới ra mắt, Gabriel García Márquez và nỗi cô đơn huyền thoại(*), không chỉ là kết tinh của một phương pháp lí thuyết (hậu hiện đại), mà còn là dấu ấn của một chặng đường đối thoại và diễn giải Márquez với hơn 20 tiểu luận chuyên sâu từng công bố, được giới chuyên môn đánh giá cao. Ở bài viết này, chúng tôi thử hệ thống hóa những góc độ diễn giải Márquez trong chuyên luận trên.
1. Từ đặc thù văn hóa
Theo Đỗ Lai Thúy, văn hóa là một thực thể có tính hệ thống, trong đó, văn học là yếu tố cấu thành. Do đó, dẫu văn học là yếu tố mạnh, có khả năng tác động, góp phần thay đổi hệ thống văn hóa, nhưng xét cho cùng, vì nằm trong hệ thống, văn học luôn chịu sự chi phối hoặc sự quy định của văn hóa. Để phê bình một hiện tượng văn học, cần xét xem hiện tượng ấy thuộc về hệ thống văn hóa nào. Như vậy, việc Phan Tuấn Anh dành nhiều công sức để làm rõ suối nguồn văn hóa Mĩ Latin thời hậu thực dân trong tiểu thuyết Márquez là thao tác hợp lí, đồng thời thỏa mãn mong muốn của chính Márquez, được dùng mô hình văn hóa thuộc về ông để thấu hiểu các sáng tác của ông. Chủ nghĩa hậu hiện đại là trào lưu văn hóa có tính nhân loại, nhưng trên những khu vực khác nhau, nó vẫn thể hiện những đường nét dị biệt, bản địa.
Theo lát cắt dọc, văn hóa Mĩ Latin là một nền văn hóa lai. Các thành phần của nó gồm người Indian bản xứ (da đỏ), người da trắng (chủ yếu là Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha), người da đen (châu Phi), người da vàng (châu Á) và người lai. Sự đa dạng, phong phú đi đôi với sự phức tạp khi tình trạng phân biệt đẳng cấp chủng tộc thể hiện rất rõ qua đặc quyền của người da trắng trong tương quan với phần còn lại, rồi bản thân mỗi chủng tộc văn hóa cũng có những khối xung đột nội tại. Chưa kể những chấn thương tinh thần sâu sắc do người da trắng gây ra từ những ngày đầu. Trong suốt quá trình chinh phục, truy diệt và chia để trị Mĩ Latin, những kẻ thực dân đã không ngần ngại kết hợp đồng thời vũ lực (súng ống), tư tưởng (Kito giáo Tây Ban Nha là thiết chế nhà thờ khắc nghiệt và đẫm máu bậc nhất châu Âu lúc bấy giờ) và bệnh tật (vi trùng). Tất cả đã in hằn trong tiềm thức văn hóa Mĩ Latin và kéo dài tàn dư của nó đến tận thời hiện tại. Ở lát cắt ngang, hậu quả đương thời của lịch sử hình thành ấy là sự bất ổn thường nhật của tư tưởng hệ, chính trị, lãnh thổ, xã hội, tôn giáo…
Chỉ ra những đặc điểm trên, Phan Tuấn Anh hướng đến các vấn đề sau: Thứ nhất, cơ cấu chủng tộc văn hóa đa dạng là điều kiện ra đời của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mĩ Latin (mà các sáng tác của Márquez là bộ phận quan trọng), với “sự hòa quyện giữa tính khoa học duy lí của người phương Tây (đề cao hiện thực), với tính tâm linh của người da đen, tín ngưỡng đa thần, đam mê huyền thoại (đề cao huyền ảo) của người da đỏ”. Thứ hai, tiểu thuyết Márquez có sự phóng chiếu trạng thái giằng co, giữa khát khao vượt thoát khỏi sự chi phối của văn hóa “mẫu quốc” xưa với vị trí quan trọng không thể phủ nhận của nền văn hóa ấy trong đời sống Mĩ Latin đương đại. Trạng thái đó thể hiện rõ qua tính giễu nhại và nước đôi trong cảm quan về tôn giáo, qua cảm thức cô đơn ám ảnh từ hình tượng địa danh Macondo, qua bản chất thẩm mĩ của hình tượng căn bệnh thổ tả,… Theo chúng tôi, sự giằng co ấy là quy luật chung của các nền văn hóa (nhỏ) bị đồng hóa (trên các mức độ khác nhau) bởi các nền văn hóa thực dân, vừa đề kháng nhưng cũng vừa tiếp biến. Cốt yếu là Phan Tuấn Anh đã sử dụng chúng như những mã văn hóa để khai mở thành công nhiều biểu tượng đặc sắc của Márquez. Thứ ba, sự hỗn loạn của trật tự chính trị, xã hội và đặc biệt là sự mịt mù thông tin ở Mĩ Latin là môi trường tương thích của cảm quan đa trị thời hậu hiện đại. Đa trị về nhận thức và thông tin sẽ dẫn đến kết cấu mê lộ của truyện kể. Thứ tư, bước chân những đội quân xâm lược, bên cạnh văn hóa phương Tây chính thống, đã dẫn nguồn cả văn hóa trào tiếu dân gian vào châu Mĩ Latin, và chi phối đậm nét các sáng tác của (không chỉ) Márquez, tạo nên một thế giới phong phú của hệ thống hình tượng nghịch dị.
Đặc thù văn hóa Mĩ Latin hậu hiện đại chính là xuất phát điểm để Phan Tuấn Anh triển khai các góc độ diễn giải còn lại. Có thể, không phải tất cả các tiểu luận của cuốn sách đều thực sự tiếp cận Márquez từ góc độ văn hóa, nhưng trong những nghiên cứu còn lại, tác giả không nội quan thuần túy, mà thường nội - ngoại quan. Các vấn đề xem xét được đồng hành bằng phông văn hóa Mĩ Latin sâu rộng.
2. Từ bút pháp huyền ảo
Có thể thấy ảnh hưởng của Lê Huy Bắc tới quan niệm về cái huyền ảo (the magical) của Phan Tuấn Anh. Cái huyền ảo là một giai đoạn phát triển của kiểu sáng tác huyền ảo. Những thuật ngữ đồng cấp với nó là cái huyền thoại (the mythical) và cái kì ảo (the fantastic), để chỉ những giai đoạn khác nhau của kiểu sáng tác huyễn ảo. Giai đoạn đầu từ cổ đại đến trung cổ thuộc về cái huyền thoại, tương ứng với đặc tính thẩm mĩ: không sợ hãi. Giai đoạn hai từ cận đại đến hiện đại (khoảng từ thế kỉ XIV đến thế kỉ XIX) thuộc về cái kì ảo, đặc tính thẩm mĩ: sợ hãi. Giai đoạn ba từ hiện đại đến hậu hiện đại (khoảng từ thế kỉ XX đến nay) thuộc về cái huyền ảo, đặc tính thẩm mĩ: vừa sợ vừa không sợ, mang tính giễu nhại. G.G.Márquez - nhà văn hiện thực huyền ảo - là cách định danh quen thuộc. Nhưng trong dòng chảy của kiểu sáng tác huyền ảo ở giai đoạn huyền ảo, Márquez đã khẳng định chỗ đứng của mình như thế nào? Đó là vấn đề được Phan Tuấn Anh quan tâm.
Trước hết, đặc trưng huyền ảo Márquez là “thi tính” trong xây dựng hình tượng huyền ảo. Chất thơ trữ tình đậm nét hiện lên không chỉ ở những hình ảnh và hình tượng có tính lãng mạn, mà còn ở một phong cách trần thuật đậm chất thơ được tạo ra bởi “những câu dài, đa cấu trúc, sử dụng nhiều tính từ, tạo ra âm hưởng trùng điệp, tạo nhạc tính như tứ thơ văn xuôi”. Song, thủ pháp đắc lực nhất của Márquez là kéo dài đến mức quá khổ thời gian sự kiện, đặt nó vào trong không gian huyền thoại, khiến nó được huyền thoại hóa. Cái kì ảo được thi tính hóa, thiên về tính huyền thoại hóa khiến “con người không cảm giác có khoảng cách, cảm giác sợ hãi, tâm lí bị xâm phạm bạo tàn, bị đứt gãy hiện thực, mà cảm thấy sự gần gũi, thán phục trước những điều kì vĩ, mênh mông, diệu vợi”. Ngôi kể, do vậy, thường là ngôi thứ ba, chứ không phải ngôi thứ nhất như người kể về cái kì ảo.
Liên quan đến kĩ năng thuyết phục người đọc về sự hiện diện của cái kì ảo, Phan Tuấn Anh chỉ ra đặc trưng giọng điệu trần thuật của Márquez, một thứ giọng tự nhiên, trung tính trái ngược giọng lo lắng, bất an, hoảng hốt của các nhà văn kì ảo. Cái huyền ảo không gây sợ hãi, mà có khi còn chung sống hòa thuận với con người (như bóng ma trong Trăm năm cô đơn), nên sự khác biệt trên là tất yếu. Nhà nghiên cứu đã gọi đặc tính của giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Márquez là “độ không của trần thuật về cái huyền ảo”. Và chính đặc tính này đã tạo nên thành công đặc biệt của nhà văn.
Một thủ pháp thường được Márquez vận dụng, gây ấn tượng với người đọc về cái huyền ảo là định chỉ cái kì ảo bằng những con số chi tiết. Để người đối diện tin (dù là trong khoảnh khắc) có một đàn voi đang bay trên trời thì hãy cụ thể hóa đàn voi bằng số lượng 425 con. Thực ra, kiểu phóng đại về số lượng như vậy không phải đến Márquez mới có, mà đã xuất hiện từ Rabelais cùng chủ nghĩa hiện thực nghịch dị. Khác biệt ở chỗ, bút pháp phóng đại của Rabelais gắn với cảm hứng sinh sôi, thừa mứa của các yếu tố vật chất - thân xác. Còn trường hợp đàn voi của Márquez thì gây ấn tượng về cái huyền ảo. Tuy vậy, không ít trường hợp khác trong tiểu thuyết Márquez, với tư cách là hình tượng nghịch dị (do nền tảng văn hóa trào tiếu dân gian nhập cư như đã đề cập), các con số phóng đại cụ thể cũng thuộc về cảm hứng vật chất - thân xác. Chẳng hạn, con số 514 cô gái điếm trong Hồi kí về những cô gái điếm buồn của tôi. Hơn ai hết, Phan Tuấn Anh ý thức sâu sắc điều đó. Vậy thì ở những trường hợp này, thủ pháp miêu tả chi tiết bằng con số cụ thể (có thể đạt đến mức phóng đại) thuộc về mục đích thuyết phục cho cái huyền ảo hay thuộc về cảm hứng ngợi ca đời sống vật chất - thân xác dân gian?
Chúng tôi nghĩ rằng, thủ pháp trên thỏa mãn cả hai. Từ sự phóng đại nghịch dị của Rabelais đến sự phóng đại (có khi) nghịch dị của Márquez là hai giai đoạn phát triển không liền kề nhau của chủ nghĩa hiện thực nghịch dị. Sự phóng đại vui tươi, phóng khoáng của bút pháp nghịch dị thời Phục Hưng châu Âu, vốn thuộc về giai đoạn của cái huyền thoại, hầu như dị ứng hoàn toàn với bản chất gây sợ hãi của cái kì ảo. Nhưng nó lại phần nào gần gũi hơn với cái huyền ảo (cụ thể là chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mĩ Latin, một thế hệ di truyền xa xôi về thời gian lẫn khoảng cách địa lí). Đó là nguyên nhân khiến nó phục sinh mạnh mẽ ở chủ nghĩa hiện thực huyền ảo của Márquez, như nhiều nghiên cứu của Phan Tuấn Anh đã chứng minh. Thế thì có nên tách riêng chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mĩ Latin và cái nghịch dị trong tiểu thuyết Márquez? Cái huyền ảo dù sao vẫn khác cái huyền thoại. Vậy, cũng cần giới thuyết về cái nghịch dị của Márquez trong tương quan với cái nghịch dị huyền thoại. Đến đây đã là giới hạn của chúng tôi. Việc giải quyết những vấn đề ấy đành mong chờ ở sự đồng cảm và gửi gắm ở năng lực của nhà nghiên cứu.
Cái huyền ảo trong Márquez còn được Phan Tuấn Anh gắn với kết cấu mê lộ, gọi chung là “những mê lộ huyền ảo”.
3. Từ cảm quan đa trị đến kết cấu mê lộ
Cảm quan đa trị (multivalent sensibility) là sự tri giác và thức nhận thẩm mĩ về thế giới gắn với tình trạng bất tín nhận thức (espistemological uncertainty), mất niềm tin vào các đại tự sự (grand narrative), để hướng đến các tiểu tự sự (petit narrative) trong thời hậu hiện đại.
Qua nhiều tác phẩm của Márquez như Tướng quân giữa mê hồn trận, Tin tức về một vụ bắt cóc, Giờ xấu,… Phan Tuấn Anh chứng minh sự bao trùm của của cảm quan đa trị. Nó thể hiện trước tiên ở sự song tồn của các học thuyết về dân tộc tính khác nhau trong thực tiễn đời sống chính trị Mĩ Latin, được khúc xạ vào văn học, giữa tư tưởng thống nhất với tư tưởng độc lập, giữa độc tài với li khai. Biểu hiện của cảm quan đa trị Mĩ Latin trong tiểu thuyết Márquez, như phân tích của Phan Tuấn Anh, là hết sức phong phú. Nhưng lọc ra trong số đó, phát hiện độc đáo và nổi bật nhất là hình tượng các lãnh tụ và hình tượng tờ rơi. Hình tượng lãnh tụ là sự đa trị giữa hai bản chất: kẻ độc tài và nhà giải phóng, giữa tội nhân và anh hùng. Hình tượng tờ rơi là sự đa trị về mặt thông tin. Theo Phan Tuấn Anh, tờ rơi là đặc sản chính trị đường phố Mĩ Latin. Nó phục vụ cho mục đích triệt tiêu lẫn nhau của các lực lượng chính trị đối lập, trên cơ sở trạng thái bị o bế thông tin của đời sống xã hội. Tất nhiên, tất cả các cực đối lập trên chỉ trở nên đa trị khi chúng có được sự tiếp tay của người trần thuật ở thái độ khách quan, không đề cao hay hạ thấp bất cứ một đối cực nào. Hay nói đúng hơn, mỗi người trần thuật thông tin cũng là một cực trong tình thế đa trị thông tin. Người đọc, trong nỗ lực diễn giải của anh ta, trở thành một cực trị giữa thế giới đa trị ấy.
Trong văn học hậu hiện đại, cảm quan đa trị đã tạo ra hình thức tự sự mê lộ. Người đề xuất và luận giải về thuật ngữ “mê lộ” với tư cách một phạm trù triết mỹ phổ biến thời hậu hiện đại là nhà văn người Argentina J.L.Borges. Mê lộ dần trở thành một thủ pháp tự sự, nơi tác giả dùng những kĩ thuật trần thuật hậu hiện đại nhằm phá vỡ tính mạch lạc, logic của ngôn ngữ, giọng điệu, không - thời gian và ngôi trần thuật. Những kĩ thuật ấy ở Márquez, theo Phan Tuấn Anh, gồm có: 1/ Trần thuật đa chủ thể, đa điểm nhìn; 2/ Sự đồng hiện nhiều thế hệ, nhiều số phận, nhiều ký ức làm thành vòng tròn thời gian nghệ thuật; 3/ Sự xuất hiện của các yếu tố huyền ảo, không ngừng xen cắt và tham gia vào thực tiễn; 4/ Đặt sự kiện nằm trong thì quá khứ nhằm hồi tưởng lại theo các hướng khác nhau; và 5/ Nhiễu hóa sự định vị minh bạch về không thời gian nghệ thuật bằng các phép ẩn dụ. Các thủ pháp này luôn tương tác, đan cài vào nhau, mở ra một mê lộ trước mắt độc giả, cản trở mọi sự tiếp nhận thông tin một chiều, tuyến tính. Không tồn tại một trung tâm tuyến tính nào làm điểm tựa cho người đọc tiền hiện đại và người đọc hiện đại.
Lối tự sự mê lộ, mục đích tự thân của nó không phải gây khó cho người đọc, mà nhằm thể hiện cảm quan đa trị, phi trung tâm hóa như là bản chất thế giới thời hậu hiện đại. Con người và nhận thức của nó chỉ là những mảnh vỡ khác nhau của thế giới. Chính khát vọng tìm ra sự thật duy nhất của con người hiện đại đã đẩy nó vào những mê cung. Để thoát ra khỏi mê cung ấy, phương thức duy nhất là liên kết các mảnh vỡ, liên kết các văn bản về thế giới. Đó là ý nghĩa thẩm mĩ của tự sự mê lộ trong tiểu thuyết hậu hiện đại nói chung và tiểu thuyết hậu hiện đại Márquez nói riêng.
Từ cuốn sách của Phan Tuấn Anh về nỗi cô đơn huyền thoại của Márquez, có thể nhận thấy một trường tiếp xúc rất rộng, còn nhiều vấn đề vượt khỏi ba góc độ diễn giải được hệ thống ở đây, nhưng thiển nghĩ, đó là ba góc độ cơ bản nhất. Khẳng định nền tảng văn hóa hậu hiện đại Mĩ Latin là xuất phát điểm của Phan Tuấn Anh, không có nghĩa chúng tôi đặt nhà nghiên cứu lọt thỏm trong phê bình văn hóa. Bởi các tiểu luận trên góc độ văn hóa không chiếm ưu thế so với các tiểu luận trên góc độ văn bản. Phông văn hóa sâu rộng, lại vận dụng hợp lí đã giúp Phan Tuấn Anh loại bỏ được sự thô ráp, khuôn khổ của phương pháp. Hơn nữa, Márquez cũng chỉ là văn bản được kiến tạo từ rất nhiều văn bản xung quanh. Sử dụng tri thức văn hóa liên ngành để soi tỏ liên văn bản trong tiểu thuyết Márquez, với Phan Tuấn Anh, thế giới luôn là một văn bản vẫy gọi, gọi mời khám phá.
P.T.H.L
(TCSH326/04-2016)
...........................................
Gabriel García Márquez và nỗi cô đơn huyền thoại, Nxb. Văn học, H., 2015. (Giải thưởng Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế 2015 và Giải thưởng của Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam 2015).
NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.
LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.
TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ chức.
HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.
LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.
LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)
TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...
MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.
BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.
NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.
NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.
NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.
PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.
BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.