Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa

10:42 15/10/2008
TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.


Gần nửa thế kỷ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, nhân dân Việt đã tạo dựng cho mình một nền văn học nghệ thuật cách mạng. Gắn với nền văn học nghệ thuật cách mạng, chúng ta đã có những tác giả và nghệ sĩ lớn của các chuyên ngành Văn học, Mỹ thuật, Âm nhạc, Sân khấu, Điện ảnh, Múa, Nhiếp ảnh, Kiến trúc, Văn nghệ dân gian.. Có những tác giả đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến, nhưng chỉ một thời gian hoạt động văn học nghệ thuật ngắn ngủi, họ và những tài năng khác đã để lại những tác phẩm gắn bó với chặng đường lịch sử, cách mạng hào hùng của dân tộc. Có thể nói, những tác phẩm văn học nghệ thuật về lịch sử, kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ mãi mãi là viên ngọc sáng chói, lấp lánh mang dấu ấn, trí tuệ và cả xương máu của các thế hệ văn nghệ sĩ hoà mình vào lịch sử dân tộc, cách mạng và kháng chiến. Nếu nhìn nhận ở góc độ lý luận trong sáng tác, thì một điều hiển nhiên, như tự các tác phẩm đã nói lên toàn bộ mong muốn, tư tưởng của người sáng tác: Dùng văn học nghệ thuật phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Lấy bối cảnh, mẫu nhân vật từ ngay trong đời sống chiến đấu, lao động xây dựng đất nước làm trung tâm để xây dựng tác phẩm. Có thể nói, một thời gian dài xuyên suốt, đến tận bây giờ, đại đa số các văn nghệ sĩ vẫn lấy phương pháp sáng tác ấy làm nền tảng để xây dựng tác phẩm. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ ở hai miền Nam Bắc, chúng ta có thể thấy trong tác phẩm văn học nghệ thuật của các chuyên ngành, từ bối cảnh lịch sử, xã hội, hình tượng nhân vật hầu như được lấy từ ngoài đời, các nhân vật được coi là trung tâm từ giai cấp công nhân, nông dân, bộ đội và có một số ít tác phẩm được lấy từ người trí thức. Một cuộc sống thật sinh động, một con người, một tập thể dũng cảm chiến đấu hoặc lao động quên mình... trong cuộc sống đã khơi nguồn sáng tạo cho các tác giả để rồi, các cá nhân, tập thể ấy bước vào tác phẩm văn học nghệ thuật. Và đến khi, từ trang sách, từ bức tranh, từ phim ảnh, âm nhạc, vở diễn bước ra, đến với công chúng, các cá nhân, tập thể ấy trở thành lung linh hơn, có sức hấp dẫn, có sức tập hợp, dẫn dắt các thế hệ dám sống và chiến đấu, dám đi vào những nơi khó khăn để lao động, cống hiến. Sức hút của tác phẩm văn học nghệ thuật ngót nửa thế kỷ của các thế hệ tác giả đã cổ vũ, động viên, tạo dựng tình cảm và đời sống tinh thần làm nên đời sống văn hóa của một xã hội mới.

Cuộc chiến đấu hào hùng đã trở thành lịch sử. Những năm tháng lao động quên mình vì chiến trường, giải phóng đất nước đã lùi xa. Cuộc sống đang ngày càng phát triển. Chúng ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chúng ta đã bắt tay, tìm kiếm bạn bè trên toàn thế giới để nhanh chóng đưa đất nước đi lên. Mọi vùng miền trên khắp đất nước đang chuyển mình. Hơn 20 năm qua, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn. Thực tế đời sống đã đẩy lùi được cách nhìn hiện thực đời sống xã hội lệch lạc, không đúng với bản chất xã hội. Những tác phẩm có nội dung xa lạ, đề cao hình thức, thể hiện cực đoan, xa lạ với thẩm mỹ của đại bộ phận công chúng không được đón nhận. Nhưng để các tác phẩm văn học nghệ thuật đến với công chúng, trở thành đời sống tinh thần của các bộ phận trong đời sống xã hội, những người lao động mới, đang đặt ra cho giới văn học nghệ thuật, phải có một cách nhìn nhận mới về xã hội nhằm tạo ra những tác phẩm có nội dung, hình thức gắn bó với đời sống thực tại. Sức sống của các tác phẩm văn học nghệ thuật trong đời sống xã hội, chính là ở lĩnh vực tư tưởng, đạo đức và lối sống. Đấy cũng là thế mạnh của văn học nghệ thuật. Xa rời điều đó, có nghĩa là tác phẩm văn học nghệ thuật cũng rời bỏ luôn sức mạnh và chức năng cao đẹp của mình.

Những câu ca dao, tục ngữ khuyết danh, những bài dân ca các vùng miền có từ xa xưa vẫn có sức sống và sự truyền cảm mãnh liệt, dẫn dắt, nuôi dưỡng đời sống tinh thần của bao thế hệ người Việt Nam, vẫn là những câu ca dao tục ngữ với những bài dân ca nối tiếp đạo lý, tình cảm đã trở thành lối sống văn hoá của người Việt. Bởi vậy, vấn đề đặt ra cho tác giả của các chuyên ngành văn học nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay là: Muốn có tác phẩm đi vào cuộc sống, được công chúng đón nhận, đòi hỏi các tác giả phải thâm nhập đời sống, nhất là đối với các tác giả làm các công tác hành chính, nghiên cứu tỉnh tại, do nhiều năm vì công việc, vì điều kiện sức khoẻ và điều kiện sống đã bỏ lỡ thực tế xã hội đang thay đổi, khiến mình như trở thành lạc hậu. Mặt khác, muốn nắm bắt được đời sống, muốn nhận thức được xã hội, đòi hỏi tác giả phải học, phải có thêm kiến thức mới để có thể đi sâu được vào đời sống xã hội, mới tìm hiểu được đời sống các tầng lớp xã hội đương đại mà ở dưới gốc là các tầng lớp nhân dân lao động. Cái lõi quyết định cho sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội là đội ngũ những người công nhân, nông dân, trí thức mới đang có những biến chuyển lớn về cách thức lao động, sinh sống cũng như về trình độ khoa học kỹ thuật, về trình độ tư duy, hiểu biết trong thời kỳ thế giới đang chuyển giao công nghệ, của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngay trong  thực tế xã hội đang có nhiều chuyển biến lớn, cũng đã có sự phân hoá: Người có trí thức - người không được học hành, đào tạo; người giàu - người nghèo; người chủ - người làm thuê. Vai trò của các tầng lớp ấy trong xã hội như thế nào? Ảnh hưởng của họ trong đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá ra sao? Đấy là vấn đề lớn mà tác giả của các chuyên ngành văn học nghệ thuật rất đáng quan tâm, gần như khác hẳn với những gì đã quen tư duy, quen làm. Đành rằng, trước đời sống xã hội như vậy, các tác giả có quyền tự do sáng tác, tự do nghiên cứu, sưu tầm các công trình văn học nghệ thuật dân gian lưu truyền trong nhân dân, đem đến cho đời sống xã hội. Nhưng tự do sáng tạo, tự do công bố những công trình nghiên cứu, sưu tầm còn phải nghĩ đến trách nhiệm xã hội của tác giả. Dù tác giả có sử dụng mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác, mọi sự tìm kiếm, chọn lọc vốn văn hoá, vốn văn học nghệ thuật còn đang bị chìm lấp trong đời sống xã hội, thì cái đích vẫn là đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng, cho sự tiến bộ xã hội, không thể chỉ phục vụ cho ý thích cá nhân của tác giả.

Chính vì vậy, những người đứng đầu của các Hội Văn học nghệ thuật, những tác giả của các chuyên ngành văn học nghệ thuật đã từng có nhiều tác phẩm, có nhiều kinh nghiệm trong sáng tác, trong nghiên cứu, sưu tầm các công trình văn học nghệ thuật, chúng ta sẽ cùng nhau đưa ra những giải đáp cho các vấn đề trong sáng tác: Xã hội mới đang đặt ra những vấn đề gì cho sáng tác văn học nghệ thuật? Liệu có còn khái niệm về một “nhân vật” trung tâm không? Nếu có, họ là ai? Là người công nhân? Hay người nông dân? Người trí thức? Tầng lớp thương nhân mới hình thành? Hay toàn thể con người thuộc mọi lĩnh vực lao động trong xã hội? Bởi có nhận thức được điều này, mỗi tác giả mới có thể chọn đề tài, chọn khu vực của thực tế đời sống để thâm nhập, sáng tác. Một câu hỏi “xưa như trái đất” nhưng hình như vẫn còn đặt ra là chúng ta sáng tác cho ai? Và có hay không có câu hỏi nữa là: Liệu tôi có quyền sáng tác cái mà tôi thích và cho riêng tôi không? Nếu có thì giới hạn cái tôi ấy đến đâu?

 


Một đặc điểm của văn học nghệ thuật nước ta là tính thống nhất và đa dạng bao gồm vốn văn học nghệ thuật của 54 dân tộc anh em. Vì vậy, vốn văn nghệ dân tộc của chúng ta rất phong phú. Trong tìm kiếm, sáng tác để hoà nhập thời hiện đại, vốn văn học, cũng như các chuyên ngành khác: Âm nhạc, Múa, Mỹ thuật, Sân khấu, Kiến trúc của các dân tộc anh em đóng góp một phần rất quan trọng, với những sắc thái từ Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên đến các tỉnh Tây Nam Bộ làm giàu bản sắc chung của dân tộc, gợi sự tin yêu của công chúng đối với văn học nghệ thuật. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, để phục vụ, tìm hướng sáng tác cho các chuyên ngành các Hội Văn học nghệ thuật từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố đã có nhiều cuộc hội thảo tập trung vào vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, trong quá trình toàn cầu hoá về kinh tế đang diễn ra và càng sôi động hơn ở nước ta, nhất là sau Hội nghị APEC được tổ chức tại Hà Nội năm 2006. Những cuộc trao đổi về bản sắc dân tộc, dân tộc và ngoại tộc đang thu hút sự suy nghĩ, tìm tòi của nhiều văn nghệ sĩ. Trong các cuộc hội thảo, nhiều văn nghệ sĩ đã rất quan tâm nói đến quá trình tìm hiểu, nghiên cứu phương pháp sáng tác trong các tác phẩm cổ điển, dân gian của dân tộc. Có tác giả nghiên cứu viết cả cuốn sách dày để giải mã các phương pháp sáng tác của các tác giả ký, truyện ngắn, tiểu thuyết thời Trung đại. Và đấy, cũng có thể xem là những mô hình sáng giá cho chúng ta tham khảo để tìm tòi, sáng tạo ra cái mới, trong sự mở rộng giao lưu với các trào lưu văn nghệ từ khu vực Đông Nam Á, đến các nước trên thế giới.

Từ năm 1999 đến nay, lĩnh vực văn học nghệ thuật được Chính phủ quan tâm hỗ trợ. Nhất là từ năm 2004, cả 64 Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố cũng được nhận hỗ trợ hằng năm. Chúng ta đã thấy nhiều tác phẩm được phát hành, triển lãm, biểu diễn đã có nhiều cố gắng đi sâu vào sự thật của đời sống xã hội, đi sâu vào nội tâm con người. Dù ở lĩnh vực chuyên ngành văn học nghệ thuật nào, các tác phẩm của các thế hệ tác giả đều có hướng tìm về giá trị tinh thần và văn hoá dân tộc. Một số tác giả trẻ cũng đã mạnh dạn thể hiện phương hướng của cuộc sống hiện đại thông qua những vở kịch ngắn, phim ngắn, những cuộc triển lãm, sắp đặt...
Trong những năm qua, nhất là mấy năm gần đây, từ khi có hỗ trợ kinh phí của Chính phủ cho việc sáng tạo tác phẩm, sưu tầm nghiên cứu công trình văn học nghệ thuật, đề tài của các tác phẩm văn học nghệ thuật được mở rộng hơn. Không những vậy, ngay từ nội dung Quyết định hỗ trợ của Thủ tướng Chính phủ, đến bản Thông tư hướng dẫn thực hiện kinh phí cho việc hỗ trợ tác phẩm, công trình nghiên cứu, sưu tầm văn học nghệ thuật đã gợi ý về một số đề tài nên được tập trung hỗ trợ, từ đề tài lịch sử dân tộc, đề tài cách mạng và hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; đề tài thanh thiếu nhi; đề tài dân tộc thiểu số và bao quát vẫn là đề tài về cuộc sống hiện nay. Bất cứ đề tài nào nói đến con người Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử là tác giả đều có thể “với tay” đến và được Chính phủ khích lệ. Đặc biệt là những mảng đời sống ở các khu vực cuộc sống mang tính trọng điểm, nhạy cảm, thu hút nhiều tâm trí, tài lực, có khả năng mang lại sự đổi thay lớn lao cho diện mạo của đất nước, tạo dựng một cuộc sống tươi đẹp, làm nền tảng cho một đời sống tinh thần, văn hoá của thời đại. Những khu vực như thế có ở khắp mọi nơi trên đất nước ta: Thuỷ điện Sơn La; Thuỷ điện Nà Hang ở Tuyên Quang; khu chế xuất Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Hà Tây, Hưng Yên, Bình Dương, Phú Yên... Đường Hồ Chí Minh chạy dọc dãy Trường Sơn đi qua hầu hết các tỉnh, thành phố sẽ là huyết mạch giao thông, tạo sự sống cho đất nước và đem tiến bộ xã hội đến các bản làng người dân tộc thiểu số. Rồi các thành phố lớn đang được mở mang, tạo đà phát triển kinh tế xã hội. Chúng ta có thể tổ chức cho cá nhân, tập thể tác giả đi thực tế. Có chuyên ngành, cần thiết để có tác phẩm lớn, không chỉ hỗ trợ một năm, có thể hai năm và có thể kéo dài đến hết giai đoạn hỗ trợ (2010), nhưng phải có tác phẩm lớn. Tỉnh, thành phố nào mạnh về chuyên ngành nào, ta đầu tư tập trung về chuyên ngành đó. Thiếu tác giả chuyên ngành, ta có thể mời thêm để phối hợp với các Hội bạn trong khu vực. Trên thực tế, có nhiều tác phẩm được hình thành từ nhóm tác giả. Nhất là việc nghiên cứu, sưu tầm, tập hợp tài liệu cho một công trình văn nghệ dân gian, loang ra diện rộng, trên nhiều tỉnh cũng rất cần được sự phối hợp không chỉ của Hội, mà còn của từng tác giả. Hy vọng rằng trong một vài năm tới, chúng ta sẽ có mùa bội thu về tác phẩm văn học nghệ thuật. Hy vọng rằng chúng ta sẽ có những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn, những bức tranh, tấm ảnh, những ca khúc, điệu múa, công trình kiến trúc... ghi dấu ấn của một giai đoạn phát triển xã hội có một không hai trong lịch sử dân tộc, những công trình nghiên cứu, sưu tầm văn nghệ dân gian mang đậm nét văn hoá dân tộc có từ nhiều thế kỷ trước, nhuần nhuyễn trở về đời sống hiện đại.

Hơn 10 năm qua, các Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố trên cả nước đã có bước trưởng thành rõ rệt về tổ chức, tập hợp lực lượng văn nghệ đi vào hoạt động sáng tác. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền tỉnh, thành phố ngày càng quan tâm, hoạt động Hội ngày càng được mở rộng và đi vào nền nếp. Có kinh phí hỗ trợ của Chính phủ, hầu hết các Hội đã tổ chức được nhiều trại sáng tác, những đợt đi thực tế cho hội viên về huyện, xã, làng, bản; đến các vùng kinh tế trọng điểm trong tỉnh và liên kết với các Hội bạn tổ chức hội thảo, sáng tác, nghiên cứu, sưu tầm, tổ chức trại sáng tác, hoặc cho hội viên được đi rộng tới các địa phương bạn. Các Hội cũng đã rất chú trọng khuyến khích sáng tác và nghiên cứu về lịch sử dân tộc, về các danh nhân văn hoá, các vị anh hùng dân tộc đánh giặc ngoại xâm các đời trước ở địa phương. Nhiều tỉnh, thành phố đã có phát hiện mới, một số tác phẩm được chú ý. Các Hội cũng đã tổ chức được các cuộc thi, các đợt chấm và trao giải thưởng văn học nghệ thuật. Trong những năm gần đây, tác phẩm về cuộc sống hiện tại ở các tỉnh, thành phố ngày càng nhiều và chất lượng được nâng lên. Nhiều tác giả đã viết tiểu thuyết, một số tác phẩm văn học, mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu có giá trị đã vượt ra ngoài, được giới thiệu rộng rãi và đoạt giải thưởng của Trung ương. Tin chắc trong thời gian tới các tác giả chuyên ngành ở các Hội sẽ có nhiều tác phẩm tốt, đạt chất lượng cao hơn nữa.
T.Đ
(nguồn: TCSH số 222 - 08 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!

  • HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.

  • MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.

  • ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc                                  Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.

  • NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.

  • TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.

  • MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.

  • TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.

  • HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.

  • TRƯƠNG ĐĂNG DUNG                 Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.

  • ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!