Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa

10:42 15/10/2008
TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.


Gần nửa thế kỷ đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, nhân dân Việt đã tạo dựng cho mình một nền văn học nghệ thuật cách mạng. Gắn với nền văn học nghệ thuật cách mạng, chúng ta đã có những tác giả và nghệ sĩ lớn của các chuyên ngành Văn học, Mỹ thuật, Âm nhạc, Sân khấu, Điện ảnh, Múa, Nhiếp ảnh, Kiến trúc, Văn nghệ dân gian.. Có những tác giả đã hy sinh trong hai cuộc kháng chiến, nhưng chỉ một thời gian hoạt động văn học nghệ thuật ngắn ngủi, họ và những tài năng khác đã để lại những tác phẩm gắn bó với chặng đường lịch sử, cách mạng hào hùng của dân tộc. Có thể nói, những tác phẩm văn học nghệ thuật về lịch sử, kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ mãi mãi là viên ngọc sáng chói, lấp lánh mang dấu ấn, trí tuệ và cả xương máu của các thế hệ văn nghệ sĩ hoà mình vào lịch sử dân tộc, cách mạng và kháng chiến. Nếu nhìn nhận ở góc độ lý luận trong sáng tác, thì một điều hiển nhiên, như tự các tác phẩm đã nói lên toàn bộ mong muốn, tư tưởng của người sáng tác: Dùng văn học nghệ thuật phục vụ nhân dân, phục vụ đất nước. Lấy bối cảnh, mẫu nhân vật từ ngay trong đời sống chiến đấu, lao động xây dựng đất nước làm trung tâm để xây dựng tác phẩm. Có thể nói, một thời gian dài xuyên suốt, đến tận bây giờ, đại đa số các văn nghệ sĩ vẫn lấy phương pháp sáng tác ấy làm nền tảng để xây dựng tác phẩm. Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ ở hai miền Nam Bắc, chúng ta có thể thấy trong tác phẩm văn học nghệ thuật của các chuyên ngành, từ bối cảnh lịch sử, xã hội, hình tượng nhân vật hầu như được lấy từ ngoài đời, các nhân vật được coi là trung tâm từ giai cấp công nhân, nông dân, bộ đội và có một số ít tác phẩm được lấy từ người trí thức. Một cuộc sống thật sinh động, một con người, một tập thể dũng cảm chiến đấu hoặc lao động quên mình... trong cuộc sống đã khơi nguồn sáng tạo cho các tác giả để rồi, các cá nhân, tập thể ấy bước vào tác phẩm văn học nghệ thuật. Và đến khi, từ trang sách, từ bức tranh, từ phim ảnh, âm nhạc, vở diễn bước ra, đến với công chúng, các cá nhân, tập thể ấy trở thành lung linh hơn, có sức hấp dẫn, có sức tập hợp, dẫn dắt các thế hệ dám sống và chiến đấu, dám đi vào những nơi khó khăn để lao động, cống hiến. Sức hút của tác phẩm văn học nghệ thuật ngót nửa thế kỷ của các thế hệ tác giả đã cổ vũ, động viên, tạo dựng tình cảm và đời sống tinh thần làm nên đời sống văn hóa của một xã hội mới.

Cuộc chiến đấu hào hùng đã trở thành lịch sử. Những năm tháng lao động quên mình vì chiến trường, giải phóng đất nước đã lùi xa. Cuộc sống đang ngày càng phát triển. Chúng ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Chúng ta đã bắt tay, tìm kiếm bạn bè trên toàn thế giới để nhanh chóng đưa đất nước đi lên. Mọi vùng miền trên khắp đất nước đang chuyển mình. Hơn 20 năm qua, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn. Thực tế đời sống đã đẩy lùi được cách nhìn hiện thực đời sống xã hội lệch lạc, không đúng với bản chất xã hội. Những tác phẩm có nội dung xa lạ, đề cao hình thức, thể hiện cực đoan, xa lạ với thẩm mỹ của đại bộ phận công chúng không được đón nhận. Nhưng để các tác phẩm văn học nghệ thuật đến với công chúng, trở thành đời sống tinh thần của các bộ phận trong đời sống xã hội, những người lao động mới, đang đặt ra cho giới văn học nghệ thuật, phải có một cách nhìn nhận mới về xã hội nhằm tạo ra những tác phẩm có nội dung, hình thức gắn bó với đời sống thực tại. Sức sống của các tác phẩm văn học nghệ thuật trong đời sống xã hội, chính là ở lĩnh vực tư tưởng, đạo đức và lối sống. Đấy cũng là thế mạnh của văn học nghệ thuật. Xa rời điều đó, có nghĩa là tác phẩm văn học nghệ thuật cũng rời bỏ luôn sức mạnh và chức năng cao đẹp của mình.

Những câu ca dao, tục ngữ khuyết danh, những bài dân ca các vùng miền có từ xa xưa vẫn có sức sống và sự truyền cảm mãnh liệt, dẫn dắt, nuôi dưỡng đời sống tinh thần của bao thế hệ người Việt Nam, vẫn là những câu ca dao tục ngữ với những bài dân ca nối tiếp đạo lý, tình cảm đã trở thành lối sống văn hoá của người Việt. Bởi vậy, vấn đề đặt ra cho tác giả của các chuyên ngành văn học nghệ thuật trong giai đoạn hiện nay là: Muốn có tác phẩm đi vào cuộc sống, được công chúng đón nhận, đòi hỏi các tác giả phải thâm nhập đời sống, nhất là đối với các tác giả làm các công tác hành chính, nghiên cứu tỉnh tại, do nhiều năm vì công việc, vì điều kiện sức khoẻ và điều kiện sống đã bỏ lỡ thực tế xã hội đang thay đổi, khiến mình như trở thành lạc hậu. Mặt khác, muốn nắm bắt được đời sống, muốn nhận thức được xã hội, đòi hỏi tác giả phải học, phải có thêm kiến thức mới để có thể đi sâu được vào đời sống xã hội, mới tìm hiểu được đời sống các tầng lớp xã hội đương đại mà ở dưới gốc là các tầng lớp nhân dân lao động. Cái lõi quyết định cho sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội là đội ngũ những người công nhân, nông dân, trí thức mới đang có những biến chuyển lớn về cách thức lao động, sinh sống cũng như về trình độ khoa học kỹ thuật, về trình độ tư duy, hiểu biết trong thời kỳ thế giới đang chuyển giao công nghệ, của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngay trong  thực tế xã hội đang có nhiều chuyển biến lớn, cũng đã có sự phân hoá: Người có trí thức - người không được học hành, đào tạo; người giàu - người nghèo; người chủ - người làm thuê. Vai trò của các tầng lớp ấy trong xã hội như thế nào? Ảnh hưởng của họ trong đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá ra sao? Đấy là vấn đề lớn mà tác giả của các chuyên ngành văn học nghệ thuật rất đáng quan tâm, gần như khác hẳn với những gì đã quen tư duy, quen làm. Đành rằng, trước đời sống xã hội như vậy, các tác giả có quyền tự do sáng tác, tự do nghiên cứu, sưu tầm các công trình văn học nghệ thuật dân gian lưu truyền trong nhân dân, đem đến cho đời sống xã hội. Nhưng tự do sáng tạo, tự do công bố những công trình nghiên cứu, sưu tầm còn phải nghĩ đến trách nhiệm xã hội của tác giả. Dù tác giả có sử dụng mọi phương pháp, mọi phong cách sáng tác, mọi sự tìm kiếm, chọn lọc vốn văn hoá, vốn văn học nghệ thuật còn đang bị chìm lấp trong đời sống xã hội, thì cái đích vẫn là đáp ứng đời sống tinh thần lành mạnh, bổ ích cho công chúng, cho sự tiến bộ xã hội, không thể chỉ phục vụ cho ý thích cá nhân của tác giả.

Chính vì vậy, những người đứng đầu của các Hội Văn học nghệ thuật, những tác giả của các chuyên ngành văn học nghệ thuật đã từng có nhiều tác phẩm, có nhiều kinh nghiệm trong sáng tác, trong nghiên cứu, sưu tầm các công trình văn học nghệ thuật, chúng ta sẽ cùng nhau đưa ra những giải đáp cho các vấn đề trong sáng tác: Xã hội mới đang đặt ra những vấn đề gì cho sáng tác văn học nghệ thuật? Liệu có còn khái niệm về một “nhân vật” trung tâm không? Nếu có, họ là ai? Là người công nhân? Hay người nông dân? Người trí thức? Tầng lớp thương nhân mới hình thành? Hay toàn thể con người thuộc mọi lĩnh vực lao động trong xã hội? Bởi có nhận thức được điều này, mỗi tác giả mới có thể chọn đề tài, chọn khu vực của thực tế đời sống để thâm nhập, sáng tác. Một câu hỏi “xưa như trái đất” nhưng hình như vẫn còn đặt ra là chúng ta sáng tác cho ai? Và có hay không có câu hỏi nữa là: Liệu tôi có quyền sáng tác cái mà tôi thích và cho riêng tôi không? Nếu có thì giới hạn cái tôi ấy đến đâu?

 


Một đặc điểm của văn học nghệ thuật nước ta là tính thống nhất và đa dạng bao gồm vốn văn học nghệ thuật của 54 dân tộc anh em. Vì vậy, vốn văn nghệ dân tộc của chúng ta rất phong phú. Trong tìm kiếm, sáng tác để hoà nhập thời hiện đại, vốn văn học, cũng như các chuyên ngành khác: Âm nhạc, Múa, Mỹ thuật, Sân khấu, Kiến trúc của các dân tộc anh em đóng góp một phần rất quan trọng, với những sắc thái từ Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên đến các tỉnh Tây Nam Bộ làm giàu bản sắc chung của dân tộc, gợi sự tin yêu của công chúng đối với văn học nghệ thuật. Chính vì vậy, trong những năm gần đây, để phục vụ, tìm hướng sáng tác cho các chuyên ngành các Hội Văn học nghệ thuật từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố đã có nhiều cuộc hội thảo tập trung vào vấn đề giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, trong quá trình toàn cầu hoá về kinh tế đang diễn ra và càng sôi động hơn ở nước ta, nhất là sau Hội nghị APEC được tổ chức tại Hà Nội năm 2006. Những cuộc trao đổi về bản sắc dân tộc, dân tộc và ngoại tộc đang thu hút sự suy nghĩ, tìm tòi của nhiều văn nghệ sĩ. Trong các cuộc hội thảo, nhiều văn nghệ sĩ đã rất quan tâm nói đến quá trình tìm hiểu, nghiên cứu phương pháp sáng tác trong các tác phẩm cổ điển, dân gian của dân tộc. Có tác giả nghiên cứu viết cả cuốn sách dày để giải mã các phương pháp sáng tác của các tác giả ký, truyện ngắn, tiểu thuyết thời Trung đại. Và đấy, cũng có thể xem là những mô hình sáng giá cho chúng ta tham khảo để tìm tòi, sáng tạo ra cái mới, trong sự mở rộng giao lưu với các trào lưu văn nghệ từ khu vực Đông Nam Á, đến các nước trên thế giới.

Từ năm 1999 đến nay, lĩnh vực văn học nghệ thuật được Chính phủ quan tâm hỗ trợ. Nhất là từ năm 2004, cả 64 Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố cũng được nhận hỗ trợ hằng năm. Chúng ta đã thấy nhiều tác phẩm được phát hành, triển lãm, biểu diễn đã có nhiều cố gắng đi sâu vào sự thật của đời sống xã hội, đi sâu vào nội tâm con người. Dù ở lĩnh vực chuyên ngành văn học nghệ thuật nào, các tác phẩm của các thế hệ tác giả đều có hướng tìm về giá trị tinh thần và văn hoá dân tộc. Một số tác giả trẻ cũng đã mạnh dạn thể hiện phương hướng của cuộc sống hiện đại thông qua những vở kịch ngắn, phim ngắn, những cuộc triển lãm, sắp đặt...
Trong những năm qua, nhất là mấy năm gần đây, từ khi có hỗ trợ kinh phí của Chính phủ cho việc sáng tạo tác phẩm, sưu tầm nghiên cứu công trình văn học nghệ thuật, đề tài của các tác phẩm văn học nghệ thuật được mở rộng hơn. Không những vậy, ngay từ nội dung Quyết định hỗ trợ của Thủ tướng Chính phủ, đến bản Thông tư hướng dẫn thực hiện kinh phí cho việc hỗ trợ tác phẩm, công trình nghiên cứu, sưu tầm văn học nghệ thuật đã gợi ý về một số đề tài nên được tập trung hỗ trợ, từ đề tài lịch sử dân tộc, đề tài cách mạng và hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ; đề tài thanh thiếu nhi; đề tài dân tộc thiểu số và bao quát vẫn là đề tài về cuộc sống hiện nay. Bất cứ đề tài nào nói đến con người Việt Nam trong các giai đoạn lịch sử là tác giả đều có thể “với tay” đến và được Chính phủ khích lệ. Đặc biệt là những mảng đời sống ở các khu vực cuộc sống mang tính trọng điểm, nhạy cảm, thu hút nhiều tâm trí, tài lực, có khả năng mang lại sự đổi thay lớn lao cho diện mạo của đất nước, tạo dựng một cuộc sống tươi đẹp, làm nền tảng cho một đời sống tinh thần, văn hoá của thời đại. Những khu vực như thế có ở khắp mọi nơi trên đất nước ta: Thuỷ điện Sơn La; Thuỷ điện Nà Hang ở Tuyên Quang; khu chế xuất Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Hà Tây, Hưng Yên, Bình Dương, Phú Yên... Đường Hồ Chí Minh chạy dọc dãy Trường Sơn đi qua hầu hết các tỉnh, thành phố sẽ là huyết mạch giao thông, tạo sự sống cho đất nước và đem tiến bộ xã hội đến các bản làng người dân tộc thiểu số. Rồi các thành phố lớn đang được mở mang, tạo đà phát triển kinh tế xã hội. Chúng ta có thể tổ chức cho cá nhân, tập thể tác giả đi thực tế. Có chuyên ngành, cần thiết để có tác phẩm lớn, không chỉ hỗ trợ một năm, có thể hai năm và có thể kéo dài đến hết giai đoạn hỗ trợ (2010), nhưng phải có tác phẩm lớn. Tỉnh, thành phố nào mạnh về chuyên ngành nào, ta đầu tư tập trung về chuyên ngành đó. Thiếu tác giả chuyên ngành, ta có thể mời thêm để phối hợp với các Hội bạn trong khu vực. Trên thực tế, có nhiều tác phẩm được hình thành từ nhóm tác giả. Nhất là việc nghiên cứu, sưu tầm, tập hợp tài liệu cho một công trình văn nghệ dân gian, loang ra diện rộng, trên nhiều tỉnh cũng rất cần được sự phối hợp không chỉ của Hội, mà còn của từng tác giả. Hy vọng rằng trong một vài năm tới, chúng ta sẽ có mùa bội thu về tác phẩm văn học nghệ thuật. Hy vọng rằng chúng ta sẽ có những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn, những bức tranh, tấm ảnh, những ca khúc, điệu múa, công trình kiến trúc... ghi dấu ấn của một giai đoạn phát triển xã hội có một không hai trong lịch sử dân tộc, những công trình nghiên cứu, sưu tầm văn nghệ dân gian mang đậm nét văn hoá dân tộc có từ nhiều thế kỷ trước, nhuần nhuyễn trở về đời sống hiện đại.

Hơn 10 năm qua, các Hội Văn học nghệ thuật tỉnh, thành phố trên cả nước đã có bước trưởng thành rõ rệt về tổ chức, tập hợp lực lượng văn nghệ đi vào hoạt động sáng tác. Các cấp uỷ Đảng và chính quyền tỉnh, thành phố ngày càng quan tâm, hoạt động Hội ngày càng được mở rộng và đi vào nền nếp. Có kinh phí hỗ trợ của Chính phủ, hầu hết các Hội đã tổ chức được nhiều trại sáng tác, những đợt đi thực tế cho hội viên về huyện, xã, làng, bản; đến các vùng kinh tế trọng điểm trong tỉnh và liên kết với các Hội bạn tổ chức hội thảo, sáng tác, nghiên cứu, sưu tầm, tổ chức trại sáng tác, hoặc cho hội viên được đi rộng tới các địa phương bạn. Các Hội cũng đã rất chú trọng khuyến khích sáng tác và nghiên cứu về lịch sử dân tộc, về các danh nhân văn hoá, các vị anh hùng dân tộc đánh giặc ngoại xâm các đời trước ở địa phương. Nhiều tỉnh, thành phố đã có phát hiện mới, một số tác phẩm được chú ý. Các Hội cũng đã tổ chức được các cuộc thi, các đợt chấm và trao giải thưởng văn học nghệ thuật. Trong những năm gần đây, tác phẩm về cuộc sống hiện tại ở các tỉnh, thành phố ngày càng nhiều và chất lượng được nâng lên. Nhiều tác giả đã viết tiểu thuyết, một số tác phẩm văn học, mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu có giá trị đã vượt ra ngoài, được giới thiệu rộng rãi và đoạt giải thưởng của Trung ương. Tin chắc trong thời gian tới các tác giả chuyên ngành ở các Hội sẽ có nhiều tác phẩm tốt, đạt chất lượng cao hơn nữa.
T.Đ
(nguồn: TCSH số 222 - 08 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.