Ở Huế có một mô hình như thế

14:44 15/12/2009
NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

Nhà máy bia Huế - Ảnh: hoichoquangcao.com

Trong nghị quyết của tỉnh ủy Thừa Thiên Huế có một câu cũng mang dáng dấp ấy: "TỪ ĐẤT ĐAI TÀI NGUYÊN, CƠ SỞ VẬT CHẤT HIỆN CÓ MÀ ĐI LÊN". Chữ mới bây giờ là "PHÁT HUY NỘI LỰC". Cách nói mới khái quát hơn cách nói cũ: "Tự lực cánh sinh là chính". Đều có nghĩa là: "Tự thân vận động".

Bằng quan điểm ấy, thu được không ít thắng lợi. Xưa Huế, Thừa Thiên là thị trường tiêu thụ. Nay cánh đồng hẹp, một khúc của miền Trung này đã có thể tự nuôi được chính mình. Ngư nghiệp không chỉ đánh bắt, mà đã nuôi trồng. Nuôi tôm, cua và trồng rau câu. Hơn thế nữa, đã bắt đầu sắm tàu lớn đánh cá xa bờ. Khai thác ngày càng nhiều tài nguyên của đầm phá, của biển. Nhà máy gạch Tuy-nen, nhà máy xi măng Hương Trà tận dụng đất, đá nội địa. Ngành du lịch tận hưởng các công trình văn hóa cha ông để lại, khai thác cảnh quan của Sông Hương, và mới khởi công nguồn nước khoáng nóng Mỹ An đưa vào dịch vụ. Nhà máy đường Phong Điền vừa liên doanh xây dựng đã huy động đất đồi, đất cát của cả 7 huyện trồng mía. Hàng vạn lao động được tận dụng sức dư thừa, để từ đất đai làm ra đường trắng, một mặt hàng công nghiệp đang là nhu cầu của đời sống. Ngay cả cảng Chân Mây, tận dụng mực nước sâu, đang là đề tài sôi sục hàng năm trời nay. Vùng đất đồi Bình Điền, Nam Đông, A Lưới đang được tính toán cho cây quế, thông nhựa, cà phê...

Tôi điểm sơ qua một số mũi nhọn kinh tế của Thừa Thiên Huế để một lần nữa khẳng định rằng nghị quyết của tỉnh đảng bộ: "Từ đất đai tài nguyên, cơ sở vật chất hiện có mà đi lên" là đúng đắn. Suy nghĩ mang tính triết học ấy có lý, không chỉ cho hôm nay mà cho cả ngày mai.

Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn đang làm hai cuộc vận động lớn: phong trào VAC tức vườn, ao, chuồng và trang trại, chẳng phải là phương thức từ đất đai, tận dụng sức lao động đang dư thừa nhàn rỗi, chỉ có cách đó mới mau chóng đưa đời sống nhân dân lên được.

Tôi hoàn toàn không phản bác, giơ hai tay đồng tình cách nghĩ, cách làm ấy. Song giả dụ bây giờ tôi đặt câu hỏi: "Liệu có phương thức kinh tế nào không từ đất đai, tài nguyên cơ sở vật chất hiện có mà vẫn đi lên được không?". Xin đừng nghĩ rằng tôi đang đi ngược lại luồng gió thời đại, cũng đừng nghĩ rằng tôi "chống nghị quyết" của Đảng. Đã đành Đảng đã nói thì cứ thế mà làm. Tuy nhiên điều tôi muốn đề cập ở đây là phải luôn luôn sáng tạo.

Xin đừng giật mình, ấy chỉ là điều tôi nói chơi thôi. Thực tế cuộc sống đã có mô hình không từ đất đai, tài nguyên, không từ cơ sở vật chất hiện có mà đi lên rồi.

Tôi xin trả lời ngay cái đáp số ấy, đó là nhà máy bia Huđa.

Nhà máy bia Huđa không dùng tới hàng vạn héc-ta trồng nguyên liệu, không tận dụng hàng chục vạn nhân công phục vụ trực tiếp cho công nghiệp như nhà máy đường. Không dùng hàng trăm cây số bờ biển như ngư nghiệp... Nhà máy bia chỉ sử dụng diện tích đất: 15.000 mét vuông, và số người trực tiếp trong nhà máy chỉ có 220 người.

Ừ, có thể nói đó cũng là đất đai, cũng là tài nguyên đi lên cũng đúng, không sai, song ít tới mức hầu như không đáng kể.

Hãy cứ thử đi một vòng nhà máy bia Huđa mà xem, chỉ có hai khu vực hoành tráng đáng kể: Một là những bình lớn, sừng sững, đồ sộ ủ bia trong nhiệt độ lạnh, một khâu trong quy trình làm bia. Hai là khu vực đóng bia vào chai, hầu như hoàn toàn tự động, từ việc nạp bia, đóng nút và dán nhãn hiệu, rồi xếp bia vào thùng. Công việc hầu như tự động hóa hoàn toàn.

Từ ngày khai trương đến nay, nhà máy bia đã tồn tại 10 năm. Hai chữ "Tồn tại" cũng có thể hiểu được là nó "còn đó". Còn đó thôi thì chưa đủ, chưa mang tính chất hoạt động của một nhà máy. Điều khẳng định nhà máy là sự phát triển của nó, đóng góp thiết thực của nó đối với cuộc đời.

Tôi xin đưa ra đây những con số đã tổng kết để thấy công suất của nhà máy không ngừng tăng.

- Năm 1991 công suất 3 triệu lít.
- Năm 1992 công suất 6 triệu lít.
- Năm 1993 công suất 12 triệu lít.
- Năm 1995 công suất 30 triệu lít.
- Năm 1998 công suất 50 triệu lít.

Trong tương lai công ty bia Huế có khả năng phát triển thành một trong những nhà máy bia có công suất trên 100 triệu lít trong một năm vào năm 2001.

Điều rất đáng kể là với một tỉnh kinh tế còn nghèo như Thừa Thiên Huế, nhà máy bia đã nộp vào ngân sách của tỉnh rất đáng kể. Tôi xin hệ thống lại dãy số có ý nghĩa hết sức thiết thực ấy:

- Năm 1991 đóng thuế 10 tỷ đồng.
- Năm 1992 đóng thuế 37 tỷ đồng.
- Năm 1993 đóng thuế 60 tỷ đồng.
- Năm 1994 đóng thuế 73 tỷ đồng.
- Năm 1995 đóng thuế 70 tỷ đồng.
- Năm 1996 đóng thuế 106 tỷ đồng.
- Năm 1997 đóng thuế 127 tỷ đồng.
- Năm 1998 đóng thuế 150 tỷ đồng.
(Trong đó có 10 tỷ đồng thuế lợi tức)

Tính bình quân, một tháng mỗi công nhân của nhà máy lĩnh 800.000 đồng tiền lương, nhưng mỗi một ngày một người đã góp vào ngân sách nhà nước 2 triệu đồng. Như vậy có nghĩa là một công nhân nhà máy bia góp cho ngân sách nhà nước trong một tháng 60 triệu đồng. Hiệu quả như vậy không nhỏ một chút nào.

Ngoài 15.000 mét vuông đất tỉnh cấp cho nhà máy, nhà máy đã dùng một thứ tài nguyên hiện có là nước Sông Hương để làm bia. Còn hầu như tất cả các nguyên liệu dùng cho nhà máy đều mua của nước ngoài hết.

Cứ theo những luận cứ chính xác tôi trình bầy trên, rõ ràng nhà máy bia Huế xứng đáng là một mô hình kinh tế tiên tiến của Thừa Thiên Huế. Giá Thừa Thiên Huế có nhiều nhà máy kiểu này, vừa sử dụng rất ít đất đai, vừa chi phí tới mức ít nhất tài nguyên, chắc chắn chẳng mấy mà Thừa Thiên Huế đã giàu, đâu đến nỗi cứ ậm ạch mãi.

Để có được kết quả kinh tế nhà máy bia đâu chỉ có thể ỉ vào cơ sở vật chất hiện có, thứ tài nguyên cần phải được khai thác một cách hết sức trang trọng đó là trí tuệ của con người.

Trong cuộc lấy ý kiến của văn nghệ sĩ trí thức vừa rồi, tỉnh đưa ra câu hỏi thăm dò rằng: Có phải tỉnh ta bị chảy máu chất xám không? E câu này chả cần trả lời cũng đã thấy mười mươi ở Thừa Thiên Huế chảy máu chất xám ào ạt như thế nào? Theo tôi, điều đáng quan tâm là: Tại sao lại có hiện tượng chảy máu chất xám như thế? Lý giải, và mạnh dạn sửa chữa những sai sót, không sợ vết mổ não nghiêm khắc ấy mới là điều quan trọng.

Nhà máy bia chẳng là một minh chứng sự rạng rỡ của tri thức đó sao? Đúng như Lê Nin đã nói: "Có tri thức mới có cách mạng". Hiểu được luận điểm ấy thật khó khăn làm sao. Nhà bác học Ac-si-mét chẳng đã khát khao: "Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng cả trái đất này". Vâng, nghĩa rộng của điểm tựa là tri thức vậy!.

Không có tri thức công nghiệp thì làm sao có nhà máy bia. Khi Thừa Thiên Huế tính làm bia, thì Đông Hà đã có bia Đông Hà. Đà Nẵng có bia Đà Nẵng và con cọp. Xa nữa, bia 333 của Sài Gòn, bia Hà Nội ở phía Bắc đã tràn ngập thị trường. Tiger, Heineken cũng đang quảng cáo rầm rộ. Trước tình hình ấy Huế vẫn quyết tâm làm bia, rõ ràng Huế có tầm nhìn. Không gan không thể dám cạnh tranh được. Mặc dù lúc ấy đi vay vốn rất khó. Ngân hàng Công thương của Trung ương có 3 tỷ đã cho Công ty Du lịch tỉnh vay để làm Khách sạn Hương Giang II rồi. Đành phải quay qua liên doanh 6 bên: Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng Nông nghiệp, Ngân hàng Công thương, Ủy ban thành phố, huyện Hương Điền và nhà máy bia. Có tiền rồi, chính Chủ tịch tỉnh, ông Phạm Bá Diễn phải vác tiền vào Sài Gòn đổi ngoại tệ mới đi mua máy móc được.

Hai năm sau do liên doanh phức tạp quá, tỉnh quyết định trả lại vốn cho các cổ đông, cho phép nhà máy bia Huda độc lập hoạt động như một doanh nghiệp nhà nước. Mãi đến năm 1994, phong trào liên doanh rầm rộ, và cũng là lúc nhà máy bia Huda cần mở rộng, cần tăng công suất, tỉnh quyết định liên doanh với Đan Mạch.

Không dễ gì Đan Mạch chấp nhận tỷ lệ 50-50. Trong lúc đó Tiger đòi tỷ lệ 40-60.

Tôi hỏi anh Nguyễn Minh, Tổng giám đốc công ty bia:

- Điều gì đã thuyết phục được Đan Mạch "liều" thế?

Anh Minh đáp:

- Cánh tư bản lõi đời, có sạn trong đầu trong nghề kinh doanh, chỉ có lợi nhuận mới thuyết phục được họ. Chứ đâu họ có liều. Họ nhìn thấy ý thức và trí tuệ Việt Nam trong kinh doanh bia. Từ việc xây dựng, công trình thường phải làm trong một năm rưỡi, ta chỉ làm trong 10 tháng. Ở đối tác mua máy, ta không màng máy rẻ, dám bỏ tiền, dẫu đắt hơn để mua máy móc hiện đại. Và chỉ trong 5 năm công suất sản xuất bia tăng gấp 10 lần so với năm đầu tiên. Chính tầm nhìn của chúng ta, sự dấn thân của chúng ta đã làm cho các nhà kinh doanh phương tây hài lòng. Vì vậy bất cứ yêu cầu gì của chúng ta họ cũng chấp nhận ngay.

Nhà máy bia Huda đã bước đi từng bước quyết đoán, miễn là có lợi cho đất nước, và thắng lợi trong kinh doanh. Chính trí tuệ của ta đã đủ sức thuyết phục, đủ tín nhiệm với phía Đan Mạch. Vì vậy họ mới đồng ý để Nguyễn Minh, người Huế làm Tổng giám đốc. Trong ban điều hành có 5 người thì 3 giám đốc (Kinh tế, Tổ chức và Thông tin tiếp thị) là người Đan Mạch. Nhưng chỉ hai năm sau họ rút về nước hết, giao toàn quyền cho ta quản lý. Họ không dại gì bỏ tiền ra, mà lại không để người giám sát như vậy. Lòng tin! Tin ở tài quản lý, tài kinh doanh, và tin ở cả tư cách của người bắt tay với mình. Những lẽ đó đã tạo được không khí làm ăn bền chặt. Sau này, năm 1996 Hội đồng quản trị quyết định đưa công suất lên 50 triệu lít, mỗi bên tiếp tục đầu tư thêm, phía Đan Mạch cũng nhất trí ngay. Có thể gọi đó là bài học cho những ai bước chân vào ngưỡng cửa kinh doanh thời hiện đại, đặc biệt là liên doanh với nước ngoài.

Tôi đi lang thang trong nhà máy bia, kiến trúc thật gọn gàng. Công nghệ tiên tiến, đòi hỏi tính toán đâu ra đấy. Chỉ tính riêng việc dán nhãn và dùng mẫu chai cũng phải hạch toán.

Người dán không đẹp, không chính xác như máy móc. Có khi dán lệch, khi cao, khi thấp, mất ngay mỹ thuật. Một chi tiết ấy thôi cũng dễ gây hoài nghi cho khách hàng. Nếu tính công suất, máy dán nhãn có thể thay thế cho vài trăm công nhân ở khâu đơn giản này. Nhà máy đã chọn phương thức mua máy dán nhãn. Đó là một quyết định đúng.

Việc dùng mẫu chai cũng vậy. Đang lúc nhà máy chưa tự sản xuất được chai riêng cho mình. Và nếu đầu tư vào chai cũng tốn kém lắm. Nhất là trong lúc mình đang tập hợp đại lý, họ đang có chai trong tay. Huy động được sự tận dụng ấy, mình vừa có thêm khách hàng, vừa đỡ một khâu sản xuất bao bì. Suy tính ấy hợp lý, hợp thời, nhà máy bia trở thành bạn của mọi nhà.

Đứng ở góc nhìn kinh doanh, rõ ràng nhà máy bia đã bước những bước dài. Riêng nộp ngân sách năm 1998 là 150 tỷ, con số ấy không đơn giản đâu. Nó gần bằng nửa ngân sách năm 1998 của Thừa Thiên Huế rồi.

Nhớ lại thời gian đầu tiên. Nói đến lãi suất của nhà máy 4 tỷ trong năm, ai cũng lắc đầu. Rồi những mẻ bia đầu tiên, Huđa gọi Sở thương mại tới tiêu thụ, Sở thương mại không chấp nhận. Một năm sau thì lại đến xin được làm đại lý bia. Và buồn cười hơn nữa là khi nhà máy xây dựng xong, tỉnh tìm Giám đốc nhà máy, đụng tới ai cũng từ chối: "Trong xây dựng có gì ông Minh ăn hết rồi, còn chi nữa mà làm". Ngẫm lại, sự truân chuyên ấy thú vị biết bao. Nó cũng phải trả giá đấy chứ. Những nồi nấu bia Tubo xếp hàng dọc cạnh tường, ngay bên cổng ra vào như dáng đứng ngẩng cao đầu.

Tôi hỏi anh Nguyễn Minh:

- Cái xương sống của nhà máy bia Huđa này là gì?

Anh đáp:

- Chất lượng cao và giá cả hợp lý với người tiêu dùng là xương sống của nhà máy chúng tôi. Và đó cũng chính là chiến lược lâu dài của công ty bia Huế này.

Cứ nhìn hiện tượng công suất bia Huda tăng vùn vụt, trong lúc đó một số nhà máy bia trong nước đã chết trong cơ chế thị trường. Từ chỗ đoàn bia Huế vào xin tham quan nhà máy bia họ, họ không cho, sợ lộ bí mật. Đến lúc đoàn bia ấy xin vào tham quan bia Huế, Huế nhiệt liệt xin mời. Tình thế đã khác rồi. Công nghệ mạnh sẽ cho sản phẩm tốt. Công nghệ kém dù muốn chất lượng tốt cũng không được.

Bia Huda là một trong những hãng bia chiếm thị trường trong nước. Và nó đã được xuất sang bán tại Mỹ, Ca-na-đa, Pháp và Tây-Ban-Nha. Dễ gì được thế. Đến như Pete Peterson, đại sứ Mỹ sang nhận chức ở Việt Nam, Tổng giám đốc Nguyễn Minh gửi biếu ông 2 két bia, ông đã viết thư trả lời: "Kính gửi ông Nguyễn Minh, công ty bia Huế, đường Thuận An, Huế, Việt Nam. Xin cám ơn rất nhiều về quà tặng bia Huế. Tôi đã uống hai chai rồi, và thật là loại bia tuyệt vời. Tôi đã trở nên rất thích uống bia so với nhiều năm qua và nhận thấy bia Huế chất lượng rất cao và rất thú vị. Tôi hy vọng sớm đến thăm Huế và có thời gian gặp ông..."

Có được lời khen của người sành bia uống bia có truyền thống như Pete Peterson, thêm một lần khẳng định chiếc chìa khóa của bia Huế là chất lượng. Sự tồn tại của nó chính là ở chỗ đó.

Cũng chính nhờ chất lượng, bia Huế ngày càng đông khách hàng. Và chính sự thú vị ấy, khách hàng đã phiên âm 4 chữ cái trong HuDa thành lời kêu gọi nhiệt thành, như một lời hô, như một lời cổ vũ: HÃY UỐNG ĐI ANH!

Tôi cũng là một khách hàng của Huda đây. Và tôi cũng đã nói với bạn bè của mình rằng: Hãy uống đi anh!

Có lẽ đó cũng là một món quà xứng đáng của khách hàng tặng cho bia Huế vậy.

N.Q.H
(123/05-99)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN NỮ NGHI TRINHNói đến lối ăn Huế người ta nghĩ ngay đến cung cách ăn uống trong cung đình, vì Huế đã từng là thủ phủ của Đàng Trong từ thế kỷ XVII rồi trở thành kinh đô của cả nước từ thế kỷ XIX. Ngần nấy thế kỷ cũng đủ cho Huế trở thành một trung tâm chính trị và văn hóa, trong đó văn hóa ẩm thực giữ một vị trí quan trọng, mà những món ăn trong cung đình là sự chọn lựa tối ưu.

  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!