Nói về Duyệt Thị Đường

14:52 15/12/2009
JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

Nhà hát Duyệt Thị Đường - Ảnh: simplevietnam.com

Chúng tôi rất thích thú được đọc những bài viết trên Tạp chí Sông Hương số 118 phát hành tháng 12 năm 1998 nói về việc trùng tu những Di tích lịch sử của Huế, được UNESCO xếp hạng vào danh sách Di Sản Thế giới từ tháng 12 năm 1993.

Trong bài viết về các nguồn tài trợ nước ngoài (trang 37) dành cho Duyệt Thị Đường, chúng tôi nhận thấy có sự lầm lẫn và chúng tôi xin cám ơn Ban biên tập Tạp chí Sông Hương đã đồng ý cho chúng tôi trình bày toàn bộ công việc này mà chúng tôi đã theo đuổi từ năm 1993.

Sau cuộc hội thảo được UNESCO và Pháp tổ chức tại Huế vào những ngày 1 và 2 tháng 4 năm 1994, thông qua Hiệp Hội Codev Việt Pháp, Chính phủ Pháp đã chính thức thông báo sẽ phối hợp với những doanh nghiệp của Pháp như EDF và CBC để giúp đỡ tài chánh thực hiện công đoạn đầu (tường và mái) của việc trùng tu Duyệt Thị Đường, và Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế là chủ công trình.

Theo tiến độ thi công công trình chúng tôi cũng đã chuyển giao cho Trung tâm Bảo Tồn Di tích Cố đô Huế từ năm 1994 đến 1997 khoản tiền tổng cộng là 124.000 đô la Mỹ, chứ không phải là 1.087.400 đồng Việt Nam như đã được in nhầm trong bài viết đã nêu.

Khoản tài trợ này dùng mua gỗ lim để sửa chữa lại một số hệ vì kèo mái, các cấu kiện làm mới toàn bộ các cửa và cửa sổ. Khoản tiền này còn để mua toàn bộ số ngói Thanh Lưu ly lợp lại mái. Ngoài ra, Codev Việt Pháp còn hỗ trợ kỹ thuật giúp cải thiện việc sản xuất ngói và thiết kế công trình.

Tháng 10 năm 1997, khi những công việc trùng tu giai đoạn đầu hầu như kết thúc, một cơn lốc mạnh đã làm hư hỏng nặng mái ngói, hệ vì kèo mái và các cấu kiện của Duyệt Thị Đường, Tả Vu và Quốc Tử Giám.

Trung tâm Bảo Tồn Di tích Cố đô Huế đã phải ngừng công trình Duyệt Thị Đường, tháo dỡ toàn bộ ngói, sửa chữa lại cho chắc chắn hệ vì kèo và các cấu kiện. Công việc sửa chữa này đã được tiến hành vào tháng 7 năm 1998 nhờ vào khoản trợ giúp đặc biệt 50.000 đô la Mỹ của UNESCO cho việc phục hồi lại những công trình đã bị hư hỏng do cơn lốc. Việc thi công phần mái của Duyệt Thị Đường đến nay vẫn chưa hoàn tất do những nguyên nhân về kỹ thuật và hành chánh.


(Một góc Duyệt Thị Đường đang sửa chữa - Ảnh: Trung Sơn)


Duyệt Thị Đường (500 m2 ở tầng dưới) được xây dụng từ năm 1826 dưới thời Minh Mạng, để làm nơi biểu diễn Nghệ thuật cung đình (hát, múa, nhạc, hát bội) cho vua và nội cung. Duyệt Thị Đường được sửa đổi và mở rộng nhiều lần dưới các triều đại nhà Nguyễn. Năm 1957, nhà hát lại được mở rộng thêm một lần nữa để làm trường Âm nhạc (800m2 ở tầng dưới và 600m2 ở tầng trên). Nay tầng dưới của Duyệt Thị Đường được dùng làm nơi biểu diễn Nghệ thuật Cung đình cho du khách Việt Nam và nước ngoài. Ở tầng trên, các phòng sẽ được bố trí để trưng bày trang phục, nhạc cụ và các tài liệu liên quan đến Nghệ thuật truyền thống cung đình.

Đối với Trung tâm Bảo Tồn Di tích Cố đô Huế, đây là công việc bảo tồn và phát huy giá trị đầy phức tạp và khó khăn. Công việc này đòi hỏi phải có thời gian khảo sát và nghiên cứu. Nó bao gồm công việc trùng tu và việc bảo tồn các công trình dưới thời Minh Mạng và Khải Định, việc phục hồi bằng cách tìm được kiểu kiến trúc hòa hợp với khung cảnh của Đại Nội. Cũng cần phải thực hiện những dịch vụ mới nhằm đáp ứng những qui phạm về an toàn và tiện nghi đối với những người hiện nay đang sử dụng địa điểm lịch sử sống động này.

Tính phức tạp và những khó khăn này đòi hỏi phải có những kiến thức đa ngành và có chiều sâu để đạt được chất lượng mà Nhóm công tác Huế - Unesco từng mong muốn. Với những lý trên, được sự hỗ trợ về tài chính của chính phủ Pháp, Hiệp hội "Les Arts du Viet Nam Renouvelés" đã tổ chức từ đầu năm 1998 "Những cuộc Tọa đàm Sư phạm Quốc tế", có kết hợp với các chuyên gia Việt Nam và nước ngoài đang làm việc tại Đại Nội. Các cuộc hội thảo này nhằm giúp cho các chuyên gia của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế nâng cao kiến thức chuyên môn.

Trong tháng 3 năm 1999, chúng tôi, những chuyên gia về cố vấn công trình, về ngôn ngữ và văn minh phương Đông, đã tổ chức những buổi tọa đàm Quốc tế về những chủ đề sau:

* Qui hoạch khu Duyệt Thị Đường với sự tham gia của nhóm công tác người Pháp gồm một kiến trúc sư về lịch sử và hai kiến trúc sư về cảnh quan, kết hợp với nhóm công tác Nhật của Trường Đại Học Tổng Hợp Waseda ở Tokyo. Nhóm công tác của Nhật này bao gồm hai kiến trúc sư về lịch sử chuyên ngành về kiến trúc gỗ của Đông Nam Châu Á và về lập danh mục và phân tích các di tích của Đại Nội. Các nhóm công tác này đã nhận được sự giúp đỡ của các thành viên Việt Nam của câu lạc bộ "Les Arts du Viet Nam Renouvelés" của Huế.

* Sản xuất gạch hoa xi - măng với những hoa văn đã từng được tạo ra dưới thời Khải Định với sự tham gia của nhóm công tác Waseda và một doanh nghiệp Việt - Pháp ở Hà Nội.

* Thi công toàn bộ mặt tiền phía Đông của lối vào của Duyệt Thị Đường, trên những nghiên cứu về màu sắc của các nhóm công tác Ba Lan và Pháp với sự tham gia của doanh nghiệp Việt - Pháp Todimax Maestria.

* Thi công phần lắp đặt kỹ thuật về chiếu sáng và điều hòa nhiệt độ cho Duyệt Thị Đường, với sự tham gia của một doanh nghiệp Việt - Pháp đóng ở Hà Nội và Sài Gòn.

Tuy những công việc này là khó khăn, chúng tôi vẫn hy vọng rằng Trung tâm Bảo Tồn Di tích Cố đô Huế có thể nghiệm thu phần thi công giai đoạn một (tường và mái) vào tháng 4 năm 2000, vào dịp Festival Huế năm 2000 và phần thi công của giai đoạn hai (bố trí nội thất và qui hoạch sân vườn) vào tháng 3 năm 2001, nhân Hội thảo về Duyệt Thị Đường và Vườn Lịch sử mà chúng tôi dự định tổ chức với sự bảo trợ của Unesco.

Buổi tọa đàm "Vườn Lịch sử, Di sản và Cảnh quan" được tổ chức vào ngày 27 tháng 3 vừa qua về chủ đề qui hoạch khu di tích Duyệt Thị Đường đối với chúng tôi là một cuộc giao lưu văn hóa và kỹ thuật rất phong phú.

Chúng tôi xin chân thành cám ơn những người đã tham dự và các quan khách đã có mặt:

1. Ông Thái Công Nguyên, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.
2. Ông Phùng Phu, Kiến trúc sư trưởng.
3. Ông Richard ENGELHARD, Chủ nhiệm về Đông Nam Châu Á và Thái Bình Dương của UNESCO.
4. Bà Sabrina SCHLIWANSKI, Đại diện thường trực của vùng Nord-Pas de Calais.
5. Bà Tôn Nữ Hiệp Vân, cháu của Tuy Lý Vương và chắt của Hoàng đế Minh Mạng.

J.C - C.B
(123/05-99)



 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.