VIỄN PHƯƠNG
Lúc 13 giờ Thụy Điển (tức 18 giờ Việt Nam), ngày 8/10 tại Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển, tên của nhà văn Svetlana Alexievich đã được xướng lên dành cho giải Nobel văn chương.
Nhà văn Svetlana Alexievich
Thông cáo về giải thưởng lần này, Viện hàn lâm Khoa học Thụy Điển viết rất ngắn gọn: “Giải thưởng Nobel văn chương năm 2015 được trao cho nhà văn Belarus Svetlana Alexievich vì những tác phẩm đa giọng điệu, một biểu tượng mẫu mực về sức chịu đựng và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta”.
Svetlana Alexievich sinh ngày 31/5/1948 ở Ivano-Frankivsk (Ukraine). Xuất thân từ một gia đình làm nghề giảng dạy và về sau Alexievich chuyển từ công việc giảng dạy sang lĩnh vực báo chí. Vì thế trong bút pháp của nữ nhà văn này có sự xuyên thấu lẫn nhau giữa hai thể loại văn học và báo chí.
Alexievich không quá xa lạ với đọc giả Việt Nam. Tạp chí Sông Hương số tháng 8 năm 1986, trong bài viết “Svetlana và tác phẩm Chiến tranh không có gương mặt người phụ nữ” (Vương Kiều chuyển ngữ) lần đầu tiên giới thiệu về tác giả này ở cuốn Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ, một trong những tác phẩm chủ chốt đại diện cho văn phong của Svetlana Alexievitch cũng đã được Nguyên Ngọc dịch ra tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, năm 1987.
Có thể nói Svetlana Alexievich là nhà văn của những điều có thật, nhà văn đứng về phía những kẻ cùng khổ, nhà văn dám đối diện trực tiếp với sự thật, đi tìm sự thật và phanh phui những dối trá ẩn mình trong lịch sử bất chấp sự áp chế bởi quyền lực từ đám đông đồng dạng để đưa thể loại văn chương phi hư cấu lên một đỉnh cao. Để chạm đến sự thật và sự chính xác của những thông số nên văn chương của nữ tác giả này đầy tư liệu, tính khoa học của một nhà lịch sử nhưng lại thấm đẫm văn phong đi ra từ một nhà văn giàu lòng nhân đạo. Vì thế đã dẫn tới một sự thật là Svetlana Alexievich dường như đã khước từ hư cấu.
Các tác phẩm này đều được xem là những biên niên sử trong thời đại mà Svetlana Alexievich cư trú. Tác phẩm của Svetlana Alexievich luôn ngồn ngộn tư liệu bởi lối làm việc của bà là đi từ những nhân chứng, những sự kiện và bà là nhà văn tôn trọng sự thật. Bà tôn trọng sự thật bởi chính bà cũng là nạn nhân của những cuộc chiến. Svetlana Alexievich nói rằng cứ bốn người Belarus thì một người chết trong cuộc xung đột và các phong trào kháng chiến. Số phận bi thảm của con người trong các trại tị nạn dưới chế độ Stalin, những cuộc đời cơ cực của các công nhân trong nhà máy Chernobyl, những vết thương khủng khiếp nơi chiến trường ở Afghanistan… đều được mô tả trong những trang viết của Svetlana Alexievich để phơi bày sự thật khi thế giới đang lao vào những cơn hoảng loạn vì bạo lực, nghèo đói và tham vọng.
![]() |
Bìa tác phẩm “Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ” |
Trong cuộc phỏng vấn với tên gọi Ký ức chân thực và cay đắng (bàn luận những vấn đề xoay quanh cuốn tiểu thuyết Chiến tranh không có khuôn mặt người phụ nữ giữa Etviga Giuphêrôva và Svetlana Alexievich, Etviga đã đưa ra một câu hỏi: Chị Xvet-la-na, xin chị vui lòng cho chúng tôi biết về bản thân chị và những người anh hùng trong đoản thiên tiểu thuyết của chị? Theo chúng tôi đây là một câu hỏi đụng đến sự thật mà không phải ai cũng thấy được trong văn học viết về chiến tranh. Câu hỏi đụng đến vấn đề thế nào là anh hùng, thế nào là chiến tranh, vấn đề thân phận người phụ nữ trong chiến tranh nhân loại…
Và Svetlana Alexievich đã trả lời rằng: “Hằng trăm sinh mệnh đã rơi xuống đời tôi như tuyết lở. Và hiện giờ, tôi có thể nói rằng tôi đã sống, đã chắt chiu được một ít kinh nghiệm, kinh nghiệm của kẻ khác biến thành kinh nghiệm của tôi. Một trong những nữ cựu chiến binh đã nói rằng, trở về từ mặt trận, bà cảm thấy già hơn biết bao so với những bạn bầu cùng tuổi, vì bà đã trải, đã chứng kiến bao sự biến trên đời. Trường hợp của tôi cũng vậy; tôi đã biết điều ấy và đã hiểu được mọi sự! Tôi đã tiếp xúc với những mẫu người phụ nữ thật hết sức khác nhau, có người thái độ của họ quả quyết trong chiến tranh, có người bị chiến tranh đè bẹp, có người giữ được bản chất thanh khiết, lại có người bị tước mất tinh thần mơ mộng, có người e dè khép kín, có người lại cởi mở. Đó là những phụ nữ với sức mạnh tinh thần của họ, cộng với khả năng to lớn của tâm hồn nhân bản, họ đã tạo nên chủ đề cuốn sách của tôi...”. (Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về cuộc phỏng vấn này trên Sông Hương số tháng 8/1986). Như vậy, đối với Svetlana, chiến tranh là sự tắt lụi của hàng triệu sinh mệnh và anh hùng là những người phụ nữ chịu nhiều vết thương chứ không phải tràn đầy sức mạnh mang tính sử thi huyền thoại. Và ngay cả về bản thân mình, Svetlana cũng tự cho rằng “Tôi không phải là một anh hùng”.
Là nhà văn đoạt giải Nobel văn học, dĩ nhiên lối viết của Svetlana Alexievich trước hết phải là văn học và trong văn học của bà có tính báo chí. Ngay cả bản thân bà cũng cho rằng bà từng có lúc bị mắc kẹt trong báo chí. Phát biểu sau khi được thông báo đoạt giải Nobel văn học, Svetlana Alexievich nói rằng: “Lịch sử chỉ quan tâm tới sự thật, cảm xúc luôn nằm bên lề. Nhưng tôi thì ngược lại, tôi nhìn thế giới với con mắt của một nhà văn, không phải nhà sử học”. Nhìn thế giới với con mắt của một nhà văn nghĩa là với Svetlana Alexievich, viết về chiến tranh, về những sự kiện đầy chất tư liệu, nhân chứng, sự thật nhưng không phải là cách viết của một cái máy vô cảm. Mà ngược lại, nhìn thế giới qua con mắt một nhà văn là nhìn về những đớn đau bằng tất cả lòng nhân đạo, viết về nỗi đau nhưng luôn khát vọng bay tới những chân trời tươi sáng và tự do.
Trước khi nhận được giải Nobel văn học, chúng ta có thể nhắc tới các giải thưởng danh giá khác mà Svetlana Alexievich đã được vinh danh như giải Tucholsky (1996), giải Andrei Sinyavsky (1997), Leipziger Book Prize on European Understanding (1998), Friedrich-Ebert-Stiftung-Preis (1998), giải Herder (1999), National Book Critics Circle Award, Voices from Chernobyl (2005), Oxfam Novib/PEN Award (2007), Ryszard Kapuściński Award for literary reportage (2011), v.v.
Với những nhà văn được lựa chọn cho các giải Nobel văn học gần đây như: Tomas Transtrцmer (2011), Mạc Ngôn (2012), Alice Munro (2013), Patrick Modiano (2014) và Svetlana Alexievich (2015), chúng ta thấy rằng những nhà văn có xu hướng tìm tòi đổi mới trong bút pháp nghệ thuật dường như không còn là những đối tượng nằm trong tầm ngắm của Viện Hàn lâm Thụy Điển. Mà nhìn chung, những lối viết giản dị, trầm lắng, gần gũi với truyền thống và hiện thực lại là những đối tượng hướng tới của hội đồng giải Nobel văn chương. Phải chăng, trong một thế giới đầy những simulacra (cái ngụy tạo) như ngày nay thì việc tìm tới chân rễ của sự thật là điều thiết thực hơn?
V.P (Tổng hợp)
(SH321/11-15)
LỖ TẤN
Nói đến đọc sách, tựa hồ đó là một việc rất rõ ràng, chỉ cầm đem sách ra đọc là được rồi. Nhưng không hề đơn giản như vậy.
THUẬN AN
(Đọc cuốn ký sự đường xa “18 tuổi và chuyến phượt solo đầu đời trên đất Mỹ” của Phạm Nguyễn Linh Đan, Nxb. Hội Nhà văn 2018).
(Để tưởng niệm thi sĩ Mary Oliver, vừa mất ngày 17 tháng 1, 2019, tại Florida, 83 tuổi)
ĐỨC TÙNG
CHU HUY SƠN
Khó có thể kể hết những nhà thơ Việt Nam và thế giới bắt gặp cảm hứng từ cuộc đời cao đẹp và vô cùng trong sáng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để sáng tác nên những tác phẩm về Người. Song, tôi cho rằng, bài thơ “Hồ Chí Minh - tên Người là cả một niềm thơ” của nhà thơ Cuba là một trong những sáng tác hay nhất viết về Bác.
Sinh năm 1947 tại Rio de Janeiro, Brazil, 40 tuổi mới viết và xuất bản cuốn sách đầu tiên, Paulo Coelho được xem là nhà văn (còn sống) được đọc nhiều nhất thế giới: tuy số lượng tác phẩm đến nay chỉ trên 20 cuốn, nhưng đã phát hành đến 86 triệu bản tại 150 quốc gia, trong đó có nhiều cuốn luôn ở trong danh sách best- seller (số liệu tính đến tháng 6/ 2015). Ngày 22/12/2016, trong danh sách 200 tác giả có ảnh hưởng lớn nhất thế giới do công ty Richtopia đề xướng, Paulo Coelho được kể tên ở vị trí thứ 2.
WILLIAM D. ADAMS
LGT: William D. Adams hiện là học giả cao cấp tại quỹ hỗ trợ nhân văn và khoa học nghệ thuật lừng danh Andrew W. Mellon của Hoa Kỳ. Từ 2014 - 2017, ông được Tổng thống Obama (lúc đương nhiệm) bổ nhiệm giữ chức vụ chủ tịch Tổ chức Quốc gia về Nhân văn (NEH) - cơ quan độc lập của chính phủ tài trợ các dự án văn hóa, nghệ thuật, và giáo dục.
PABLO NERUDA
LGT: Pablo Neruda, nhà thơ Mỹ Latinh nổi tiếng thế giới, sinh năm 1904 tại Parral, Chile. Năm 1920 ông đến Santiago để học tập và công bố bài thơ đầu tiên “La canción de la fiesta” (1921), rồi được biết đến rộng rãi qua tập thơ “Crepusculario” (1923).
PHẠM THỊ PHƯƠNG THẢO
Tôi xin được dùng tên một bài thơ viết tại Paris của mình làm tựa đề cho bài viết này. Đó là những cảm xúc thăng hoa, những phút giây hạnh phúc và cũng là những kỷ niệm khó quên cùng bạn thơ của 24 quốc gia tham dự cuộc thi Slam thơ Quốc tế 2018 tại Paris tháng 5/2018 vừa qua.
PHẠM HỮU THU
Nhân loại kính nể không chỉ vì đất nước Nhật Bản bình tĩnh ứng phó thiên tai mà còn gây thiện cảm qua hành vi ứng xử của họ.
NGUYỄN THANH VIỆT
Nguyễn Thanh Việt là nhà văn gốc Việt đoạt giải văn chương Pulitzer, tác giả của “The Sympathizer,” “The Refugees,” và “Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War.” Ông hiện là giáo sư Anh văn tại Đại học Nam California (Mỹ).
(T. Segers đặt câu hỏi, Hans Robert Jauss trả lời, Timothy Bahti dịch [sang tiếng Anh], Tạp chí New Literary History, Vol. 11, No. 1, Johns Hopkins University Press, 1979).
HENRY SLESAR
Nhà văn nổi tiếng Henry Slesar (1927 - 2002) viết tiểu thuyết, kịch bản, trinh thám, khoa học viễn tưởng đặc sắc về thủ pháp hài hước, kết cục trái chiều.
PHẠM ĐĂNG
Thế giới vừa vĩnh biệt một thiên tài: Stephen William Hawking.
Ngày sinh của Hawking (8 tháng 1 năm 1942) đúng 300 năm sau ngày mất của Galileo Galilei (8 tháng 1 năm 1642). Ông qua đời (14/3/2018) vào ngày số Pi, cũng là ngày sinh của Albert Einstein (14 tháng 3 năm 1879).
Robert Arthur, Jr. sinh năm 1909, tại Philippines, nơi cha của ông, sĩ quan quân lực Hoa Kỳ, đóng quân. Tuổi thơ của ông cũng theo chân cha nay đây mai đó, có điều là ông không nối nghiệp cha (dù đã được nhận vào trường West Point), mà chọn học ngành văn chương.
HENRY JAMES
Henry James: Nhà văn Mỹ (1843 NewYork - 1916 Luân Đôn), viết tiểu thuyết, truyện ngắn, phê bình văn học; đặc biệt yêu văn học, nghệ thuật Pháp. Tác phẩm: 112 truyện ngắn (1864 - 1910), Toàn tập (1990 - 2009). Chủ đề: Ý thức, tâm lý; mơ mộng, tình cảm; vẻ đẹp, chân lý nghệ thuật.
NGUYỄN ĐỨC TÙNG
Trước khi biết lòng tử tế là gì
Bạn phải mất đi nhiều thứ
NGUYỄN DƯ
Đọc Thơ Đường bất ngờ thấy bài Lương Châu từ của Vương Hàn (687 - 726):
Bồ đào mĩ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tì bà mã thượng thôi.
Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỉ nhân hồi.
PHẠM TRƯỜNG THI
Tôi và nhà văn Hà Phạm Phú nhận lời mời của Hội Nhà văn Việt Nam đi dự Hội thảo văn học quốc tế Trung Quốc và các nước lưu vực sông Mê Kông gồm: Myanmar, Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam được tổ chức từ ngày 21 đến 25 tháng 5 năm 2017 tại thành phố Nam Ninh, tỉnh Quảng Tây, khu tự trị dân tộc Choang Trung Quốc.
W.S. PEIRIS
W.S.Peiris sinh 1932; đạt giải nhì truyện ngắn tiếng Anh trong cuộc thi Văn học quốc gia Tích Lan năm 2008. Hiện ông sống tại Kiribathgoda, Sri Lanka.