Nobel Văn học 2015 - sức mạnh của sự thật

09:44 27/11/2015

VIỄN PHƯƠNG

Lúc 13 giờ Thụy Điển (tức 18 giờ Việt Nam), ngày 8/10 tại Viện Hàn lâm Khoa học Thụy Điển, tên của nhà văn Svetlana Alexievich đã được xướng lên dành cho giải Nobel văn chương.

Nhà văn Svetlana Alexievich

Thông cáo về giải thưởng lần này, Viện hàn lâm Khoa học Thụy Điển viết rất ngắn gọn: “Giải thưởng Nobel văn chương năm 2015 được trao cho nhà văn Belarus Svetlana Alexievich vì những tác phẩm đa giọng điệu, một biểu tượng mẫu mực về sức chịu đựng và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta”.

Svetlana Alexievich sinh ngày 31/5/1948 ở Ivano-Frankivsk (Ukraine). Xuất thân từ một gia đình làm nghề giảng dạy và về sau Alexievich chuyển từ công việc giảng dạy sang lĩnh vực báo chí. Vì thế trong bút pháp của nữ nhà văn này có sự xuyên thấu lẫn nhau giữa hai thể loại văn học và báo chí.

Alexievich không quá xa lạ với đọc giả Việt Nam. Tạp chí Sông Hương số tháng 8 năm 1986, trong bài viết “Svetlana và tác phẩm Chiến tranh không có gương mặt người phụ nữ” (Vương Kiều chuyển ngữ) lần đầu tiên giới thiệu về tác giả này ở cuốn Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ, một trong những tác phẩm chủ chốt đại diện cho văn phong của Svetlana Alexievitch cũng đã được Nguyên Ngọc dịch ra tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, năm 1987.

Có thể nói Svetlana Alexievich là nhà văn của những điều có thật, nhà văn đứng về phía những kẻ cùng khổ, nhà văn dám đối diện trực tiếp với sự thật, đi tìm sự thật và phanh phui những dối trá ẩn mình trong lịch sử bất chấp sự áp chế bởi quyền lực từ đám đông đồng dạng để đưa thể loại văn chương phi hư cấu lên một đỉnh cao. Để chạm đến sự thật và sự chính xác của những thông số nên văn chương của nữ tác giả này đầy tư liệu, tính khoa học của một nhà lịch sử nhưng lại thấm đẫm văn phong đi ra từ một nhà văn giàu lòng nhân đạo. Vì thế đã dẫn tới một sự thật là Svetlana Alexievich dường như đã khước từ hư cấu.

Các tác phẩm này đều được xem là những biên niên sử trong thời đại mà Svetlana Alexievich cư trú. Tác phẩm của Svetlana Alexievich luôn ngồn ngộn tư liệu bởi lối làm việc của bà là đi từ những nhân chứng, những sự kiện và bà là nhà văn tôn trọng sự thật. Bà tôn trọng sự thật bởi chính bà cũng là nạn nhân của những cuộc chiến. Svetlana Alexievich nói rằng cứ bốn người Belarus thì một người chết trong cuộc xung đột và các phong trào kháng chiến. Số phận bi thảm của con người trong các trại tị nạn dưới chế độ Stalin, những cuộc đời cơ cực của các công nhân trong nhà máy Chernobyl, những vết thương khủng khiếp nơi chiến trường ở Afghanistan… đều được mô tả trong những trang viết của Svetlana Alexievich để phơi bày sự thật khi thế giới đang lao vào những cơn hoảng loạn vì bạo lực, nghèo đói và tham vọng.
 

Bìa tác phẩm “Chiến tranh không có khuôn mặt phụ nữ”

Trong cuộc phỏng vấn với tên gọi Ký ức chân thực và cay đắng (bàn luận những vấn đề xoay quanh cuốn tiểu thuyết Chiến tranh không có khuôn mặt người phụ nữ giữa Etviga Giuphêrôva và Svetlana Alexievich, Etviga đã đưa ra một câu hỏi: Chị Xvet-la-na, xin chị vui lòng cho chúng tôi biết về bản thân chị và những người anh hùng trong đoản thiên tiểu thuyết của chị? Theo chúng tôi đây là một câu hỏi đụng đến sự thật mà không phải ai cũng thấy được trong văn học viết về chiến tranh. Câu hỏi đụng đến vấn đề thế nào là anh hùng, thế nào là chiến tranh, vấn đề thân phận người phụ nữ trong chiến tranh nhân loại…

Và Svetlana Alexievich đã trả lời rằng: “Hằng trăm sinh mệnh đã rơi xuống đời tôi như tuyết lở. Và hiện giờ, tôi có thể nói rằng tôi đã sống, đã chắt chiu được một ít kinh nghiệm, kinh nghiệm của kẻ khác biến thành kinh nghiệm của tôi. Một trong những nữ cựu chiến binh đã nói rằng, trở về từ mặt trận, bà cảm thấy già hơn biết bao so với những bạn bầu cùng tuổi, vì bà đã trải, đã chứng kiến bao sự biến trên đời. Trường hợp của tôi cũng vậy; tôi đã biết điều ấy và đã hiểu được mọi sự! Tôi đã tiếp xúc với những mẫu người phụ nữ thật hết sức khác nhau, có người thái độ của họ quả quyết trong chiến tranh, có người bị chiến tranh đè bẹp, có người giữ được bản chất thanh khiết, lại có người bị tước mất tinh thần mơ mộng, có người e dè khép kín, có người lại cởi mở. Đó là những phụ nữ với sức mạnh tinh thần của họ, cộng với khả năng to lớn của tâm hồn nhân bản, họ đã tạo nên chủ đề cuốn sách của tôi...”. (Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về cuộc phỏng vấn này trên Sông Hương số tháng 8/1986). Như vậy, đối với Svetlana, chiến tranh là sự tắt lụi của hàng triệu sinh mệnh và anh hùng là những người phụ nữ chịu nhiều vết thương chứ không phải tràn đầy sức mạnh mang tính sử thi huyền thoại. Và ngay cả về bản thân mình, Svetlana cũng tự cho rằng “Tôi không phải là một anh hùng”.

Là nhà văn đoạt giải Nobel văn học, dĩ nhiên lối viết của Svetlana Alexievich trước hết phải là văn học và trong văn học của bà có tính báo chí. Ngay cả bản thân bà cũng cho rằng bà từng có lúc bị mắc kẹt trong báo chí. Phát biểu sau khi được thông báo đoạt giải Nobel văn học, Svetlana Alexievich nói rằng: “Lịch sử chỉ quan tâm tới sự thật, cảm xúc luôn nằm bên lề. Nhưng tôi thì ngược lại, tôi nhìn thế giới với con mắt của một nhà văn, không phải nhà sử học”. Nhìn thế giới với con mắt của một nhà văn nghĩa là với Svetlana Alexievich, viết về chiến tranh, về những sự kiện đầy chất tư liệu, nhân chứng, sự thật nhưng không phải là cách viết của một cái máy vô cảm. Mà ngược lại, nhìn thế giới qua con mắt một nhà văn là nhìn về những đớn đau bằng tất cả lòng nhân đạo, viết về nỗi đau nhưng luôn khát vọng bay tới những chân trời tươi sáng và tự do.

Trước khi nhận được giải Nobel văn học, chúng ta có thể nhắc tới các giải thưởng danh giá khác mà Svetlana Alexievich đã được vinh danh như giải Tucholsky (1996), giải Andrei Sinyavsky (1997), Leipziger Book Prize on European Understanding (1998), Friedrich-Ebert-Stiftung-Preis (1998), giải Herder (1999), National Book Critics Circle Award, Voices from Chernobyl (2005), Oxfam Novib/PEN Award (2007), Ryszard Kapuściński Award for literary reportage (2011), v.v.

Với những nhà văn được lựa chọn cho các giải Nobel văn học gần đây như: Tomas Transtrцmer (2011), Mạc Ngôn (2012), Alice Munro (2013), Patrick Modiano (2014) và Svetlana Alexievich (2015), chúng ta thấy rằng những nhà văn có xu hướng tìm tòi đổi mới trong bút pháp nghệ thuật dường như không còn là những đối tượng nằm trong tầm ngắm của Viện Hàn lâm Thụy Điển. Mà nhìn chung, những lối viết giản dị, trầm lắng, gần gũi với truyền thống và hiện thực lại là những đối tượng hướng tới của hội đồng giải Nobel văn chương. Phải chăng, trong một thế giới đầy những simulacra (cái ngụy tạo) như ngày nay thì việc tìm tới chân rễ của sự thật là điều thiết thực hơn?

V.P (Tổng hợp)
(SH321/11-15)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • TRẦN THÙY MAI.Năm giờ sáng, máy bay chở chúng tôi đáp xuống sân bay Incheon. Giọng nói ngọt ngào của nữ tiếp viên vang lên với lời cảm ơn và câu chào tạm biệt, sau khi báo một thông tin làm chúng tôi ớn lạnh: Nhiệt độ bên ngoài là 4 độ C...

  • ĐẶNG NHẬT MINHLà một thương cảng của Nhật Bản, nhưng Fukuoka lại được nhiều người biết đến như một thành phố của nhiều hoạt động văn hoá mang tầm quốc tế. Tôi có duyên nợ với thành phố này từ năm 1991 khi được mời tham dự Liên hoan phim quốc tế Fukuoka lần thứ nhất với bộ phim Bao giờ cho đến tháng 10.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGChữ tea trong tiếng Anh là do dùng mẫu tự La -tinh để ký âm chữ trà (âm Hán Việt) mà người Trung Hoa nói rất rõ là chè. Lâu nay cứ tưởng chè là tiếng thuần Việt hoặc là biến âm của trà, hóa ra chè lại là từ gốc của trà. Mẹ mà nhầm là con, vui thật.

  • BÙI NGỌC TẤNLần đầu tiên đặt chân tới Châu Âu, có biết bao nhiêu ấn tượng. Ấn tượng về những nét mặt người, về những dáng người đi, về bầu trời không vẩn bụi trong veo, về những xa lộ, về những chiếc xe phóng với tốc độ 140 kilômét không một tiếng còi, nối nhau trên các con đường tám đến mười làn xe chạy không còn biên giới cách ngăn...

  • NGUYỄN VĂN DŨNGCó người nói Praha đẹp hơn Paris . Tôi không tin. Nhưng bây giờ thì tôi thấy nhận xét ấy không phải không có căn cứ. Praha là thành phố cổ kính nguyên vẹn nhất châu Âu, là “thành phố của trăm tháp vàng”, là “bài thơ bằng đá”, là khúc hát đắm say, là cốc rượu nồng nàn, là bức tranh tuyệt mĩ, là mảnh thời gian còn sót lại... Năm 1992, Praha được công nhận là di sản văn hoá thế giới.

  • PHẠM THỊ CÚCCó người nghĩ rằng, ở các nước giàu, thì ít người thất nghiệp. Không đâu, ở Pháp, người thất nghiệp cũng khá nhiều, mà đâu phải vì không có bằng cấp mà thất nghiệp, đa số họ đều có bằng kĩ sư, cử nhân, cả thạc sĩ hẳn hoi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGAmazon là tên khu rừng lớn nhất thế giới. Amazon cũng là tên con sông, theo khảo sát mới đây, là con sông dài nhất thế giới. Amazonas, quê hương của hai Amazon kia, là bang rộng nhất trong 26 tiểu bang của Brasil - rộng hơn cả diện tích của nước Anh, Đức, Pháp, Ý cộng lại. Còn Manaus, là kinh đô của Amazonas miên man núi rộng sông dài.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG    Tôi thật sự xúc động khi đứng trước ngôi mộ của Lý Tiểu Long. Trước đây tôi hình dung nơi an nghỉ cuối cùng của anh phải là một ngôi đền cực kỳ tráng lệ cho xứng với tên tuổi lẫy lừng của anh. Sau khi anh mất, một tờ báo ở Sài Gòn hồi đó viết đại loại trong thế kỷ XX, anh là một trong ba nhân vật nổi tiếng nhất châu Á.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGVới Phật giáo, Linh Thứu là ngọn núi thiêng. Sau khi thành đạo, một thời gian dài Linh Thứu là trú xứ của đức Phật và các đệ tử của Ngài. Tại đây Ngài đã giảng kinh Pháp Hoa và nhiều bộ kinh quan trọng khác. Linh Thứu còn là nơi khởi phát dòng Thiền Ấn Độ để rồi từ đây hạt giống Thiền được gieo trồng khắp nơi trên trái đất.

  • PHẠM PHÚ PHONGTrong lịch sử đất nứơc Trung Hoa có sáu nơi được chọn làm thủ đô, theo thứ tự Lạc Dương, Tây An, Nam Kinh, Khai Phong, Hàng Châu và Bắc Kinh là thủ đô thứ sáu, tồn tại cho đến ngày nay. Bắc Kinh đầu tiên là kinh đô của nước Yên, nên còn gọi là Yên Kinh, sau đó đến thời Minh Thành Tổ cho xây dựng trở thành Bắc Kinh ngày nay. Với diện tích 18.826 km2, Bắc Kinh rộng gấp 18 lần so với thủ đô Hà Nội, được mệnh danh là thành phố bốn nhiều: nhiều người, nhiều xe, nhiều cầu vượt, nhiều di tích...

  • Từ một trại lính đầy vết đạn ở vùng California (Hoa Kỳ) đã xuất hiện một tu viện Phật giáo - Tu viện Lộc Uyển - do nhà sư gốc Huế - Thiền sư Thích Nhất Hạnh - gầy dựng. Tại đây, ảnh hưởng của Thiền học Việt Nam đã tạo được một sự chuyển hóa đầy thử thách: biến trung tâm luyện tập bắn súng trở thành thiền đường đầy ánh sáng và tình thương, có ảnh hưởng rất lớn đối với nhiếu người ở Hoa Kỳ.Sông Hương xin giới thiệu bài viết của Teresa Wattanabe đã đăng trên tờ Los Angeles Times, tờ nhật báo lớn hạng ba của Hoa Kỳ, với bản dịch của Làng Mai và ảnh của Nguyễn Đắc Xuân để giới thiệu với bạn đọc như một dòng chảy của văn hóa Phật giáo xứ Huế.

  • TRẦN THÙY MAICác quan chức ngành khí tượng Nhật Bản đã cúi gập mình xin lỗi toàn dân: Hoa anh đào sẽ nở ngày 23 thay vì 16 - 3 như dự báo. Đến sân bay Narita vào đúng sáng 24, tôi tự nghĩ mình đến rất kịp thời, nên khi cậu cảnh sát làm thủ tục nhập cảnh hỏi về mục đích đến Nhật, tôi đã không ngần ngại trả lời chắc nịch: “Ngắm hoa anh đào”. Cậu cảnh sát khoanh cái rụp vào lời khai của tôi và “OK” ngay với một nụ cười trên môi.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGNằm giữa trung tâm bán đảo Iberia, thủ đô Tây Ban Nha trải rộng trên các ngọn đồi dưới chân rặng Sierra de Guadarrama, ở độ cao 640m so với mặt nước biển - là thành phố cao nhất châu Âu. Diện tích 607 km2. Dân số gần 4 triệu người.

  • KEVIN BOWEN
    (Giám đốc WJC)

    LTS: Trong 25 năm qua tên tuổi nhiều nhà văn, nhà thơ của Trung tâm William Joiner (Đại học Massachusetts - Hoa Kỳ) như Kevin Bowen, Fred Marchant, Nguyễn Bá Chung, Lady Borton, Martha Colline, Bruce Weigl, Lary Heinemann... đã xuất hiện trên Sông Hương cũng như trên nhiều báo chí văn nghệ, văn hoá trong nước với những tác phẩm tâm huyết, mến yêu đất nước Việt Nam cũng như những hoạt động trên các lãnh vực giao lưu văn hoá, giúp đỡ y tế, giáo dục cho Việt Nam sau chiến tranh, như những biểu hiện của sự ân hận, tủi hổ với những gì mà đất nước họ đã gây ra trên mảnh đất này.

  • NGUYỄN BÁ CHUNG

    Tháng 10 năm 2007 đánh dấu 25 năm thành lập trung tâm Joiner. Nhưng với tôi, nó đánh dấu một đoạn đường 20 năm nổi chìm với trung tâm, trong đó có 15 năm làm thiện nguyện và 10 năm cuối cùng làm việc chính thức. Hai mươi năm là một thời gian dài đủ để nhìn lại, ghi lại một số kỷ niệm và rút ra một số kinh nghiệm để nhìn tới đoạn đường phía trước.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNHoạt động yêu nước ở miền Nam từ những năm sáu mươi của thế kỷ trước, tôi không lạ gì nước Mỹ. Thuở ấy, Phan Ch. anh bạn vong niên của tôi làm phiên dịch ở cơ quan MACV ở Huế từng bảo tôi “Người Mỹ giống như một cậu bé con nhà giàu nhưng thiếu lễ độ”.

  • VÕ QUÊNhận lời mời của Hội đồng quốc gia vì nghệ thuật truyền thống Hoa Kỳ (National Council for the Traditional Arts), đoàn nghệ sĩ thuộc Hội Văn học nghệ thuật Thừa Thiên Huế đã tham dự Festival dân ca dân nhạc tại thành phố Lowell, bang Massachusetts, Hoa Kỳ từ ngày 25-7-1995.

  • NGUYỄN XUÂN THÂMChúng tôi đến Aten vào cuối tháng chín, mà buổi trưa vẫn còn oi bức như bao trưa miền biển ở Việt . Thanh Tùng và tôi loay hoay mãi vẫn không bắt được taxi để chuyển tiếp đến sân bay nội địa.

  • NGUYỄN VĂN DŨNGSau Cali tôi định đi Dallas, nhưng rồi chuyển hướng, tôi lên Seattle theo vẫy gọi của bạn bè. Ai ngờ cái thành phố nầy dịu dàng, xanh và đẹp đến vậy. Hèn chi người ta gọi nó là “Thành phố ngọc bích” ( Emerald City ), hay “Mãi mãi xanh tươi” ( Evergreen State ).

  • PHẠM THƯỜNG KHANHĐầu năm nay khi biết tôi chuẩn bị đi công tác Trung Hoa, em gái tôi, một người thơ gọi điện từ Huế ra bảo: “Anh cố gắng mà cảm nhận vẻ đẹp rực rỡ của văn minh Trung Hoa. Hình như với bệ phóng vững chắc của nền văn minh hàng ngàn năm ấy, người Trung Hoa đang có những cuộc bứt phá ngoạn mục và trong tương lai dân tộc này còn tiến xa hơn nữa”. Là một quân nhân, tôi đâu có được trí tưởng tượng phong phú và trái tim dễ rung động như em tôi, nhưng 10 ngày trên đất nước Trung Hoa đã để lại trong tôi những ấn tượng thật sâu đậm.