Những sắc thái cảm thức thẩm mỹ trong thơ Haiku Nhật Bản

15:43 02/03/2009
HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

Cho nên đối với họ, thơ với đời, đời với thiên nhiên là một, trong sự gắn kết mật thiết. Đây là điểm xuất phát để giải thích vì sao thơ haiku thấm đẫm chất thiền. Do ảnh hưởng của tư tưởng Thiền tông trong nhận thức cuộc sống nên thơ haiku thể hiện những cảm thức thẩm mỹ khác nhau. Chính điều này góp phần tạo nên tính đặc sắc của thơ haiku và khiến nó trở thành một thể thơ độc đáo.
Phát hiện và khẳng định những cái đẹp hiện hữu trong những sự vật bình thường của đời sống là một trong những nguyến lý thẩm mỹ của thơ haiku. Những cảm thức thẩm mỹ này thể hiện cái nhìn của các thi sĩ haiku trước hiện thực mang đậm màu sắc Thiền tông gắn với thiên nhiên và con người. Trong thơ haiku, các cảm thức thẩm mỹ như sabi, wabi, aware và karumi được thể hiện rất rõ nhằm diễn đạt những yếu tố tâm linh.

1. Cảm thức Sabi
Sabi (tịch) là cảm thức nổi trội của thơ haiku và thể hiện tập trung nhất tư tưởng của Thiền tông. Sabi là linh hồn của tịnh liêu, là cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật, nhìn thấy chúng tự bộc lộ những điều kỳ diệu. Sabi là cô đơn nhưng là “niềm cô đơn huy hoàng”, là cảm thức hùng tráng chứ không phải là cô đơn cá nhân, không mang tính bi lụy. Nó là sự tĩnh mịch không có giới hạn. Khi con người và sự vật ở trong cảnh cô liêu, tĩnh lặng sâu xa chính là lúc tất cả đã chìm vào hư vô, thoát khỏi bản ngã để tiến vào trạng thái vô ngã. Và như vậy, sabi là niềm cô tịnh vô ngã.
Theo kinh nghiệm thiền quán, khi lắng  vào niềm tịch tĩnh thì người ta sẽ lắng nghe được sự chuyển động của vạn vật:
Ôi tiếng ve kêu
Thấm xuyên vào đá
Trong cõi quạnh hiu.  
(Basho)

Những hình ảnh trên của bài thơ haiku thể hiện một khung cảnh buồn, đìu hiu bởi tiếng ve kêu khắc khoải rơi vào “cõi quạnh hiu”. Những âm thanh mạnh và sắc của tiếng ve thể hiện niềm cô tịch vô ngã của thiên nhiên đến nỗi đá núi tưởng như mềm ra và trở nên vô ngại. Trong tiếng ve kêu, ta bước vào cõi thâm u, nơi mọi vật dung chứa lẫn nhau. Vẫn là tiếng ve như ngày nào, vẫn là đá núi hôm qua và trái tim con người vẫn rộn ràng với nhịp đập ngày thường của nó nhưng không phải ở chốn ồn ào sôi động mà chính là trong tâm thức, trong cõi tịnh liêu. Niềm cô tịch được gió đưa đi xa hơn tiếng ve, tiếng chim cu gáy có tan biến về một nơi nào đó trong không gian vô định thì trong biển thiền lắng động đó vẫn có sự xao động. Chính những âm thanh nhỏ nhoi đó làm cho sự cô liêu càng thêm cô liêu:
Gió mùa thu
Bóng dài của núi
Rung lên mơ hồ.
(Issa)

Mô tả khung cảnh của núi rừng vào một sáng thu có những cơn gió thoáng qua tạo nên một không gian vắng lặng với hình dáng bóng núi đỗ dài. Ở đây, làn gió rung lên khe khẽ làm lay động cành cây hay trong cảnh sắc thiên nhiên cô tịch đó ta cảm tưởng mơ hồ như bóng núi đang rung lên bởi từng cơn gió?. Chính cảm thức sabi thể hiện rõ trong những bài thơ haiku đã góp phần tạo thành giá trị của nó:
Nửa đêm thăm thẳm
Dòng sông Ngân hà
Rời đổi chỗ nằm
.             (Ransetsu)
Nửa đêm thức giấc nhìn lên trời, thi sĩ thấy dải Ngân hà không còn nằm ở chỗ cũ mà dời sang nơi khác. Đó là sự vận động của các vì tinh tú trong vũ trụ. Nhưng đặt nhà thơ dưới đất đang nhìn lên Ngân hà ở vũ trụ, tác giả tạo nên một cảnh cô tịnh đến huy hoàng. Trong đêm thanh vắng, con người và sự vật đều chìm vào khoảng không gian bao la vô định của vũ trụ, chìm vào cái sâu thẳm của bể đêm.

Nhà thơ đẩy cảm thức sabi đạt đến đỉnh điểm trong một bài haiku nổi tiếng:
Cánh quạ ô
Trên cây héo hắt
Chiều thu. 
(Basho)
Bằng những nét phác thảo, thi sĩ Basho đã vẽ nên một bức tranh mùa thu mang tính điển hình cao độ: tiêu điều, xơ xác, buồn tẻ... Sự im lìm của cánh quạ đen, sự héo hắt của cành cây khô và sự tĩnh mịch của chiều thu là hiện thực tạo thành cái sâu thẳm, vô hạn của cảm thức sabi. Ở đây tác giả diễn tả quang cảnh một đêm thu thật đơn sơ, giản dị và cô tịch bằng một thi pháp mà nhà nghiên cứu Henderson gọi là “nguyên lý tương quan nội tại”. Trong đó sự tương phản tương đồng được nhà thơ sử dụng hợp lý. Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô và đêm thu có sự đối lập nhau tạo thành một khung cảnh thật ảm đạm cô tịch. Nếu con quạ, cành cây khô là cái hữu hạn thì đối lập với nó là cái vô hạn “đêm thu”. Bài thơ tạo nên một nỗi buồn quạnh hiu của một mảng thiên nhiên và biết đâu, đó cũng chính là sự xót xa buồn tủi của chính Basho trước thế thái nhân tình đầy rẫy những chết chóc, bi thương của xã hội đương thời? Cảm nhận về bài thơ này, Henderson cho rằng: “Ở đây không chỉ đơn giản là phong cảnh héo úa đậu xuống một chiều thu giống như hình bóng một con quạ, nó còn là sự tương phản của thân hình đen muội, nhỏ xíu của con quạ với bóng tối bao la vô định của buổi chiều hôm và với nhiều điều khác nữa tuỳ người đọc”[3,174].

2. Cảm thức Wabi
Nếu cảm thức sabi là tâm điểm gắn với tư tưởng Thiền tông thì wabi (đà) lại gần gũi với các sự vật bình thường hơn. Wabi là một khái niệm của Phật giáo Thiền tông nói đến sự cảm nghiệm về sự thanh bần an lạc, sự dung dị nhưng thanh cao của cuộc sống con người và sự vật. Cũng mang ý nghĩa cô đơn nhưng nếu sabi nghiêng về cảm xúc thẩm mỹ thì wabi lại nhằm ám chỉ đến điều kiện sống và tình cảm của con người và sự vật hơn. Theo D.T.Suzuki: “Sabi nghiêng về đồ vật cá nhân, trong  khi wabi là sống cuộc đời bình thường trong sự thanh bần hay tri túc, thiểu dục. Do đó, sabi quy về cảnh vật có tính khách quan hơn còn wabi thì thiên về cá tính chủ quan hơn” [6,25]. Đó là những cảm nhận bất ngờ về những cái “như thế” của sự vật tưởng chừng như rất nhỏ nhoi như con ốc nhỏ, một chiếc lá rơi, một giọt sương mai...

Cũng như con quạ đậu cành khô, con ếch nhảy xuống ao, tiếng ve thấm xuyên vào đá, thi sĩ mô tả cánh con chim gõ kiến đang gõ vào sự cô tịch cái nhịp điệu bình thường của cuộc sống:
Mái lều im
Một con chim gõ kiến
  Gõ ngoài trụ hiên.
(Basho)
Trong sự lặng im của mái lều và cái trụ hiên bỗng vang lên tiếng chim kiến đang gõ vào trụ hiên hay gõ vào không gian vắng lặng?. Sự hiện diện của loài vật đang hoạt động là một điều tự nhiên được thi sĩ cảm nhận một cách tinh tế tạo nên cảm xúc thẩm mỹ ở người đọc. Một chú ốc bám vào ổ khoá cổng cũng là một việc rất bình thường, nhưng nó được thi sĩ Issa miêu tả:
Trên cổng bụi cây
Nằm thay cho ổ khoá
Chú ốc nhỏ này
.   (Issa)
Wabi nói đến sự thiếu thốn, nghèo nàn về vật chất và các phương tiện sống, nhưng chứa đựng trong đó là một cái gì đó thanh cao, phóng khoáng và lành mạnh. Một đêm lạnh trở mình tỉnh giấc vì gió rét, Basho viết một bài thơ haiku:
Sương giá nửa đêm
Không ngủ được
Tôi mượn áo bù nhìn.
(Basho)
Nhà thơ thể hiện một cảm xúc rất chân thành tự nhiên: lạnh không ngủ được thì thức giấc. Nhưng ý thơ chuyển sang đột ngột và bỗng kết thúc với câu “tôi mượn áo bù nhìn”. Một thực cảnh đến đau lòng cho thi sĩ, nghèo đến mức mùa đông không đủ áo để mặc, không đủ chăn ấm. Nhưng biết làm sao bây giờ?. Phải đành “mượn áo bù nhìn” vậy. Áo “bù nhìn” thay áo người để bớt lạnh - Một ý tưởng nghịch lý, trớ trêu nhưng mang tính chất ngang tàng, phóng khoáng.

3. Cảm thức Aware
Cảm thức aware là một khái niệm thuộc phạm trù mỹ học xuất hiện khá sớm liên quan đến quan niệm của Phật giáo được văn chương Nhật sử dụng khá rộng rãi. Ngay từ thế kỷ XI, trong thơ cổ và trong tiểu thuyết Truyện Genji (Murasaki), nhiều tác giả đã nói đến aware.
Aware (bi ai) là niềm bi cảm, xao xuyến trước mọi vẻ đẹp não lòng của sự vật. Nó tương tự như một âm vang vọng lại khi những gì đã qua, sắp qua sẽ tác động vào thế giới hiện hữu bằng một âm thanh nào đó. Nhưng nó không nghiêng về cái bi lụy ngông cuồng của lãng mạn hay nỗi bi tráng ngây ngất của bi kịch mà aware là một bi cảm thâm trầm.
Trước cái chết của một người bạn, Basho viết:
Trăng rụng rồi
Bốn góc bàn quen thuộc
Còn lại mà thôi.

Ở đây, sự mất mát đối với thi nhân quá lớn nhưng tác giả không hề nói đến từ “chết” mà dùng những sự vật quen thuộc thường ngày để diễn tả sự ra đi của bạn. Như vậy, đây là bài ca bi ai về cái chết của một người bạn. Trăng rụng là nói đến cái chết ấy. Nhưng bốn góc bàn, nơi người ấy thường ngồi vẫn còn lại như tất cả những cái khác vẫn còn tồn tại trên cõi đời. Đây không phải nói đến cái bi kịch của con người mà là sự cảm nhận của thi sĩ về sự sống và cái chết cũng đơn giản, bình dị như bốn góc bàn ấy. Trong cuộc đời, mất và còn, khoảnh khắc này và khoảnh khắc khác, con người ra đi còn sự vật gần gũi thì ở lại... tất cả là niềm bi cảm của con người.
Một tiếng kêu thảng thốt của con  chim nhạn đang đi tìm chỗ trú giữa mùa đông thâm u gợi lên cảm thức phù du của trần thế và một niềm thương cảm ở người thi sĩ:
Kêu chi, nhạn ơi
Đi đâu cũng thế
Cõi phù thế thôi
. (Issa)

4. Cảm thức Karumi.
Karumi (khinh) bắt nguồn từ chữ karushi, nghĩa là nhẹ nhàng, thanh thoát. Nó dung hợp giữa tính chân phương trong phong cách và sự tinh tế trong nội dung. Karumi được nói đến như một phong thái ung dung, tự tại. Chính tâm thế đó đã tạo nên ở các thi sĩ haiku có cái nhìn rất hiện thực khi phản ánh cuộc sống và thấy được vẻ đẹp của con người và sự vật dẫu cho nó bé nhỏ và tưởng chừng như bị quên lãng. Một đoá phù dung cũng đủ góp phần tạo nên hương sắc của mùa:
Mưa mù sương
Phù dung một đoá
Làm mùa lên hương.
(Basho)
Những cánh hoa anh đào vương vãi khắp nơi theo làn gió, “đọng” vào bữa ăn khiến cho cả người và thức ăn đều thấm một màu hồng của anh đào:
Dưới cây lao xao
Chén canh, đĩa cá
Đều vương anh đào
. (Basho)

Thi sĩ đã mô tả một bức tranh đơn sơ, mộc mạc và thanh bần của một bữa cơm đạm bạc nhưng chính những cánh anh đào vương vào chén canh, đĩa cá làm cho “bữa tiệc hoa” trở nên thú vị, nên thơ.
Phát hiện từ trong những cái bình thường, cái đẹp bình dị, e ấp thể hiện ý nghĩa nhân sinh cao thượng cũng là một cảm thức mang tính karumi. Con người phải biết chiêm ngưỡng cái đẹp để vơi đi những khổ đau nhọc nhằn của cuộc sống phức tạp, bề bộn thường ngày. Đến các loài chim muông, ong bướm cũng không lãng quên cái đẹp:
Bươm bướm nào biết đâu
Một bông hoa mới nở
  Bên trời mùa thu
.   ( Basho)
Karumi thường mang đến cho người đọc những cảm thức nhẹ nhàng, thanh thoát  thông qua những khám phá xung quanh đời thường. Trong cuộc sống, con người bị cuốn hút vào vòng danh lợi, đam mê danh vọng mà quên mất những cảm xúc lãng mạn và những phút giây thần tiên, thăng hoa của cuộc đời. Nhà thơ Basho đã nhắc hộ mọi người rằng, phải có những giây phút để cho tâm hồn lắng đọng, siêu thoát thì mới cảm thức được cái đẹp của thiên nhiên:
Qua cánh cổng con
Hoa đào ta gặp
Cả trong lẫn ngoài.

Từ cảm thức về sự cô tịch (sabi) đến nhận ra cái đẹp ở sự bình dị, thanh thoát (wabi) và khẳng định cái thanh cao, ung dung (karumi) trong con người và sự vật là những biểu hiện của sắc thái thẩm mỹ mang dấu ấn Thiền tông trong thơ haiku nói chung, đặc biệt trong thơ haiku của Basho. Đời sống văn hóa Nhật Bản thấm đậm tính chất Thiền tông. Điều này không chỉ thể hiện trong văn học nghệ thuật, (đặc biệt trong thơ haiku) mà cả trong đời sống văn hoá tinh thần của người Nhật Bản từ xưa đến nay. Đặc điểm này góp phần tạo nên nét bản sắc của văn hoá Nhật Bản trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.
H.V.L
(nguồn: TCSH số 195 - 05 - 2005)

 



--------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Đỗ Tùng Bách (2000), Thơ thiền Đường Tống, NXB Đồng Nai.
[2] Nhật Chiêu (1994), Basho và thơ haiku, NXB Văn học và Trường ĐHTH thành phố Hồ Chí Minh.
[3] Nhật Chiêu (1992), Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[4] Nhật Chiêu (1998), Thơ ca Nhật Bản, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[5] G.B.SanSom (1989), Lược sử văn hoá Nhật Bản (2 tập), NXB Khoa học xã hội.
[6] D.T.Suzuki (2000), Thiền, NXB thành phố Hồ Chí Minh.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).

  • VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.

  • TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.

  • LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.

  • HỒ THẾ HÀPhân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của tâm sinh lý con người. Nó trở thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi cá thể người.

  • TRẦN THỊ THANH NHỊ “Tôi bị thôi thúc bởi một thứ khao khát hiểu biết có liên quan đến những quan hệ giữa người với người hơn là với các đối tượng tự nhiên.”(Sigmun Freud)

  • TZVETAN TODOROV(Cuộc tranh luận văn học giữa George Sand và Gustave Flaubert - qua đánh giá của Tzvetan Todorov)