Những sắc thái cảm thức thẩm mỹ trong thơ Haiku Nhật Bản

15:43 02/03/2009
HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

Cho nên đối với họ, thơ với đời, đời với thiên nhiên là một, trong sự gắn kết mật thiết. Đây là điểm xuất phát để giải thích vì sao thơ haiku thấm đẫm chất thiền. Do ảnh hưởng của tư tưởng Thiền tông trong nhận thức cuộc sống nên thơ haiku thể hiện những cảm thức thẩm mỹ khác nhau. Chính điều này góp phần tạo nên tính đặc sắc của thơ haiku và khiến nó trở thành một thể thơ độc đáo.
Phát hiện và khẳng định những cái đẹp hiện hữu trong những sự vật bình thường của đời sống là một trong những nguyến lý thẩm mỹ của thơ haiku. Những cảm thức thẩm mỹ này thể hiện cái nhìn của các thi sĩ haiku trước hiện thực mang đậm màu sắc Thiền tông gắn với thiên nhiên và con người. Trong thơ haiku, các cảm thức thẩm mỹ như sabi, wabi, aware và karumi được thể hiện rất rõ nhằm diễn đạt những yếu tố tâm linh.

1. Cảm thức Sabi
Sabi (tịch) là cảm thức nổi trội của thơ haiku và thể hiện tập trung nhất tư tưởng của Thiền tông. Sabi là linh hồn của tịnh liêu, là cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật, nhìn thấy chúng tự bộc lộ những điều kỳ diệu. Sabi là cô đơn nhưng là “niềm cô đơn huy hoàng”, là cảm thức hùng tráng chứ không phải là cô đơn cá nhân, không mang tính bi lụy. Nó là sự tĩnh mịch không có giới hạn. Khi con người và sự vật ở trong cảnh cô liêu, tĩnh lặng sâu xa chính là lúc tất cả đã chìm vào hư vô, thoát khỏi bản ngã để tiến vào trạng thái vô ngã. Và như vậy, sabi là niềm cô tịnh vô ngã.
Theo kinh nghiệm thiền quán, khi lắng  vào niềm tịch tĩnh thì người ta sẽ lắng nghe được sự chuyển động của vạn vật:
Ôi tiếng ve kêu
Thấm xuyên vào đá
Trong cõi quạnh hiu.  
(Basho)

Những hình ảnh trên của bài thơ haiku thể hiện một khung cảnh buồn, đìu hiu bởi tiếng ve kêu khắc khoải rơi vào “cõi quạnh hiu”. Những âm thanh mạnh và sắc của tiếng ve thể hiện niềm cô tịch vô ngã của thiên nhiên đến nỗi đá núi tưởng như mềm ra và trở nên vô ngại. Trong tiếng ve kêu, ta bước vào cõi thâm u, nơi mọi vật dung chứa lẫn nhau. Vẫn là tiếng ve như ngày nào, vẫn là đá núi hôm qua và trái tim con người vẫn rộn ràng với nhịp đập ngày thường của nó nhưng không phải ở chốn ồn ào sôi động mà chính là trong tâm thức, trong cõi tịnh liêu. Niềm cô tịch được gió đưa đi xa hơn tiếng ve, tiếng chim cu gáy có tan biến về một nơi nào đó trong không gian vô định thì trong biển thiền lắng động đó vẫn có sự xao động. Chính những âm thanh nhỏ nhoi đó làm cho sự cô liêu càng thêm cô liêu:
Gió mùa thu
Bóng dài của núi
Rung lên mơ hồ.
(Issa)

Mô tả khung cảnh của núi rừng vào một sáng thu có những cơn gió thoáng qua tạo nên một không gian vắng lặng với hình dáng bóng núi đỗ dài. Ở đây, làn gió rung lên khe khẽ làm lay động cành cây hay trong cảnh sắc thiên nhiên cô tịch đó ta cảm tưởng mơ hồ như bóng núi đang rung lên bởi từng cơn gió?. Chính cảm thức sabi thể hiện rõ trong những bài thơ haiku đã góp phần tạo thành giá trị của nó:
Nửa đêm thăm thẳm
Dòng sông Ngân hà
Rời đổi chỗ nằm
.             (Ransetsu)
Nửa đêm thức giấc nhìn lên trời, thi sĩ thấy dải Ngân hà không còn nằm ở chỗ cũ mà dời sang nơi khác. Đó là sự vận động của các vì tinh tú trong vũ trụ. Nhưng đặt nhà thơ dưới đất đang nhìn lên Ngân hà ở vũ trụ, tác giả tạo nên một cảnh cô tịnh đến huy hoàng. Trong đêm thanh vắng, con người và sự vật đều chìm vào khoảng không gian bao la vô định của vũ trụ, chìm vào cái sâu thẳm của bể đêm.

Nhà thơ đẩy cảm thức sabi đạt đến đỉnh điểm trong một bài haiku nổi tiếng:
Cánh quạ ô
Trên cây héo hắt
Chiều thu. 
(Basho)
Bằng những nét phác thảo, thi sĩ Basho đã vẽ nên một bức tranh mùa thu mang tính điển hình cao độ: tiêu điều, xơ xác, buồn tẻ... Sự im lìm của cánh quạ đen, sự héo hắt của cành cây khô và sự tĩnh mịch của chiều thu là hiện thực tạo thành cái sâu thẳm, vô hạn của cảm thức sabi. Ở đây tác giả diễn tả quang cảnh một đêm thu thật đơn sơ, giản dị và cô tịch bằng một thi pháp mà nhà nghiên cứu Henderson gọi là “nguyên lý tương quan nội tại”. Trong đó sự tương phản tương đồng được nhà thơ sử dụng hợp lý. Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô và đêm thu có sự đối lập nhau tạo thành một khung cảnh thật ảm đạm cô tịch. Nếu con quạ, cành cây khô là cái hữu hạn thì đối lập với nó là cái vô hạn “đêm thu”. Bài thơ tạo nên một nỗi buồn quạnh hiu của một mảng thiên nhiên và biết đâu, đó cũng chính là sự xót xa buồn tủi của chính Basho trước thế thái nhân tình đầy rẫy những chết chóc, bi thương của xã hội đương thời? Cảm nhận về bài thơ này, Henderson cho rằng: “Ở đây không chỉ đơn giản là phong cảnh héo úa đậu xuống một chiều thu giống như hình bóng một con quạ, nó còn là sự tương phản của thân hình đen muội, nhỏ xíu của con quạ với bóng tối bao la vô định của buổi chiều hôm và với nhiều điều khác nữa tuỳ người đọc”[3,174].

2. Cảm thức Wabi
Nếu cảm thức sabi là tâm điểm gắn với tư tưởng Thiền tông thì wabi (đà) lại gần gũi với các sự vật bình thường hơn. Wabi là một khái niệm của Phật giáo Thiền tông nói đến sự cảm nghiệm về sự thanh bần an lạc, sự dung dị nhưng thanh cao của cuộc sống con người và sự vật. Cũng mang ý nghĩa cô đơn nhưng nếu sabi nghiêng về cảm xúc thẩm mỹ thì wabi lại nhằm ám chỉ đến điều kiện sống và tình cảm của con người và sự vật hơn. Theo D.T.Suzuki: “Sabi nghiêng về đồ vật cá nhân, trong  khi wabi là sống cuộc đời bình thường trong sự thanh bần hay tri túc, thiểu dục. Do đó, sabi quy về cảnh vật có tính khách quan hơn còn wabi thì thiên về cá tính chủ quan hơn” [6,25]. Đó là những cảm nhận bất ngờ về những cái “như thế” của sự vật tưởng chừng như rất nhỏ nhoi như con ốc nhỏ, một chiếc lá rơi, một giọt sương mai...

Cũng như con quạ đậu cành khô, con ếch nhảy xuống ao, tiếng ve thấm xuyên vào đá, thi sĩ mô tả cánh con chim gõ kiến đang gõ vào sự cô tịch cái nhịp điệu bình thường của cuộc sống:
Mái lều im
Một con chim gõ kiến
  Gõ ngoài trụ hiên.
(Basho)
Trong sự lặng im của mái lều và cái trụ hiên bỗng vang lên tiếng chim kiến đang gõ vào trụ hiên hay gõ vào không gian vắng lặng?. Sự hiện diện của loài vật đang hoạt động là một điều tự nhiên được thi sĩ cảm nhận một cách tinh tế tạo nên cảm xúc thẩm mỹ ở người đọc. Một chú ốc bám vào ổ khoá cổng cũng là một việc rất bình thường, nhưng nó được thi sĩ Issa miêu tả:
Trên cổng bụi cây
Nằm thay cho ổ khoá
Chú ốc nhỏ này
.   (Issa)
Wabi nói đến sự thiếu thốn, nghèo nàn về vật chất và các phương tiện sống, nhưng chứa đựng trong đó là một cái gì đó thanh cao, phóng khoáng và lành mạnh. Một đêm lạnh trở mình tỉnh giấc vì gió rét, Basho viết một bài thơ haiku:
Sương giá nửa đêm
Không ngủ được
Tôi mượn áo bù nhìn.
(Basho)
Nhà thơ thể hiện một cảm xúc rất chân thành tự nhiên: lạnh không ngủ được thì thức giấc. Nhưng ý thơ chuyển sang đột ngột và bỗng kết thúc với câu “tôi mượn áo bù nhìn”. Một thực cảnh đến đau lòng cho thi sĩ, nghèo đến mức mùa đông không đủ áo để mặc, không đủ chăn ấm. Nhưng biết làm sao bây giờ?. Phải đành “mượn áo bù nhìn” vậy. Áo “bù nhìn” thay áo người để bớt lạnh - Một ý tưởng nghịch lý, trớ trêu nhưng mang tính chất ngang tàng, phóng khoáng.

3. Cảm thức Aware
Cảm thức aware là một khái niệm thuộc phạm trù mỹ học xuất hiện khá sớm liên quan đến quan niệm của Phật giáo được văn chương Nhật sử dụng khá rộng rãi. Ngay từ thế kỷ XI, trong thơ cổ và trong tiểu thuyết Truyện Genji (Murasaki), nhiều tác giả đã nói đến aware.
Aware (bi ai) là niềm bi cảm, xao xuyến trước mọi vẻ đẹp não lòng của sự vật. Nó tương tự như một âm vang vọng lại khi những gì đã qua, sắp qua sẽ tác động vào thế giới hiện hữu bằng một âm thanh nào đó. Nhưng nó không nghiêng về cái bi lụy ngông cuồng của lãng mạn hay nỗi bi tráng ngây ngất của bi kịch mà aware là một bi cảm thâm trầm.
Trước cái chết của một người bạn, Basho viết:
Trăng rụng rồi
Bốn góc bàn quen thuộc
Còn lại mà thôi.

Ở đây, sự mất mát đối với thi nhân quá lớn nhưng tác giả không hề nói đến từ “chết” mà dùng những sự vật quen thuộc thường ngày để diễn tả sự ra đi của bạn. Như vậy, đây là bài ca bi ai về cái chết của một người bạn. Trăng rụng là nói đến cái chết ấy. Nhưng bốn góc bàn, nơi người ấy thường ngồi vẫn còn lại như tất cả những cái khác vẫn còn tồn tại trên cõi đời. Đây không phải nói đến cái bi kịch của con người mà là sự cảm nhận của thi sĩ về sự sống và cái chết cũng đơn giản, bình dị như bốn góc bàn ấy. Trong cuộc đời, mất và còn, khoảnh khắc này và khoảnh khắc khác, con người ra đi còn sự vật gần gũi thì ở lại... tất cả là niềm bi cảm của con người.
Một tiếng kêu thảng thốt của con  chim nhạn đang đi tìm chỗ trú giữa mùa đông thâm u gợi lên cảm thức phù du của trần thế và một niềm thương cảm ở người thi sĩ:
Kêu chi, nhạn ơi
Đi đâu cũng thế
Cõi phù thế thôi
. (Issa)

4. Cảm thức Karumi.
Karumi (khinh) bắt nguồn từ chữ karushi, nghĩa là nhẹ nhàng, thanh thoát. Nó dung hợp giữa tính chân phương trong phong cách và sự tinh tế trong nội dung. Karumi được nói đến như một phong thái ung dung, tự tại. Chính tâm thế đó đã tạo nên ở các thi sĩ haiku có cái nhìn rất hiện thực khi phản ánh cuộc sống và thấy được vẻ đẹp của con người và sự vật dẫu cho nó bé nhỏ và tưởng chừng như bị quên lãng. Một đoá phù dung cũng đủ góp phần tạo nên hương sắc của mùa:
Mưa mù sương
Phù dung một đoá
Làm mùa lên hương.
(Basho)
Những cánh hoa anh đào vương vãi khắp nơi theo làn gió, “đọng” vào bữa ăn khiến cho cả người và thức ăn đều thấm một màu hồng của anh đào:
Dưới cây lao xao
Chén canh, đĩa cá
Đều vương anh đào
. (Basho)

Thi sĩ đã mô tả một bức tranh đơn sơ, mộc mạc và thanh bần của một bữa cơm đạm bạc nhưng chính những cánh anh đào vương vào chén canh, đĩa cá làm cho “bữa tiệc hoa” trở nên thú vị, nên thơ.
Phát hiện từ trong những cái bình thường, cái đẹp bình dị, e ấp thể hiện ý nghĩa nhân sinh cao thượng cũng là một cảm thức mang tính karumi. Con người phải biết chiêm ngưỡng cái đẹp để vơi đi những khổ đau nhọc nhằn của cuộc sống phức tạp, bề bộn thường ngày. Đến các loài chim muông, ong bướm cũng không lãng quên cái đẹp:
Bươm bướm nào biết đâu
Một bông hoa mới nở
  Bên trời mùa thu
.   ( Basho)
Karumi thường mang đến cho người đọc những cảm thức nhẹ nhàng, thanh thoát  thông qua những khám phá xung quanh đời thường. Trong cuộc sống, con người bị cuốn hút vào vòng danh lợi, đam mê danh vọng mà quên mất những cảm xúc lãng mạn và những phút giây thần tiên, thăng hoa của cuộc đời. Nhà thơ Basho đã nhắc hộ mọi người rằng, phải có những giây phút để cho tâm hồn lắng đọng, siêu thoát thì mới cảm thức được cái đẹp của thiên nhiên:
Qua cánh cổng con
Hoa đào ta gặp
Cả trong lẫn ngoài.

Từ cảm thức về sự cô tịch (sabi) đến nhận ra cái đẹp ở sự bình dị, thanh thoát (wabi) và khẳng định cái thanh cao, ung dung (karumi) trong con người và sự vật là những biểu hiện của sắc thái thẩm mỹ mang dấu ấn Thiền tông trong thơ haiku nói chung, đặc biệt trong thơ haiku của Basho. Đời sống văn hóa Nhật Bản thấm đậm tính chất Thiền tông. Điều này không chỉ thể hiện trong văn học nghệ thuật, (đặc biệt trong thơ haiku) mà cả trong đời sống văn hoá tinh thần của người Nhật Bản từ xưa đến nay. Đặc điểm này góp phần tạo nên nét bản sắc của văn hoá Nhật Bản trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.
H.V.L
(nguồn: TCSH số 195 - 05 - 2005)

 



--------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Đỗ Tùng Bách (2000), Thơ thiền Đường Tống, NXB Đồng Nai.
[2] Nhật Chiêu (1994), Basho và thơ haiku, NXB Văn học và Trường ĐHTH thành phố Hồ Chí Minh.
[3] Nhật Chiêu (1992), Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[4] Nhật Chiêu (1998), Thơ ca Nhật Bản, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[5] G.B.SanSom (1989), Lược sử văn hoá Nhật Bản (2 tập), NXB Khoa học xã hội.
[6] D.T.Suzuki (2000), Thiền, NXB thành phố Hồ Chí Minh.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ TỰ LẬPTrong thời gian làm luận án ở École Normale Supérieure de Fontenay/ Saint Cloud , tôi được nghe một câu chuyện thú vị. Trong nhà giam nọ, đám tù khổ sai, sau mỗi ngày lao động như trâu ngựa dưới đòn roi của cai ngục, chỉ có một thú tiêu khiển là nghe một người trong bọn họ kể chuyện tiếu lâm.

  • HỒ THẾ HÀTrần Vàng Sao là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ anh là tiếng nói giàu nhiệt huyết, xuất phát từ đáy lòng, hướng đến mọi người bằng giọng điệu giãi bày, tâm tình, chia sẻ. Anh sáng tác không nhiều, nhưng mỗi tác phẩm của anh để lại dấu ấn thi pháp độc đáo, đặc biệt ở việc xây dựng tứ thơ và kiến trúc bài thơ, ở hình ảnh và sức liên tưởng bất ngờ.

  • NGUYỄN HUỆ CHI     Trần Thanh Mại (1908-1965) là một nhà văn xứ Huế, một tên tuổi trong giới nghiên cứu, phê bình và sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám. Những cuốn sách ông viết rải rác trong vòng 30 năm như Tuy Lý vương, Hàn Mạc Tử, Trông giòng sông Vị, Tú Xương con người và nhà thơ... đã từng gây được ấn tượng lúc mới ra đời và đến nay vẫn còn nhiều phần giá trị. Những phát hiện của ông về Hồ Xuân Hương, Miên Thẩm đã từng gây xôn xao một thời mà sự tiếp nối của người sau cũng chưa thể nói là đã vượt qua.

  • ĐẶNG TIẾNTừ điển Nghệ Thuật Hát Bội Việt Nam do Giáo sư Nguyễn Lộc chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 1998, gồm non 700 trang khổ lớn 15x23cm, in đẹp, bìa cứng tổng hợp đầy đủ kiến thức về ngành ca kịch hát bội, còn gọi là hát bộ, hay tuồng, hay tuồng cổ.

  • THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1989, báo Văn nghệ tổ chức cuộc thi thơ kéo dài trong 2 năm, tôi có gửi 5 bài thơ dự thi. Thơ gửi đi rồi, chưa mong được giải, chỉ mong được in báo Văn nghệ một vài bài vì trước đó tôi cũng đã nhiều lần gửi báo Văn nghệ nhưng chỉ được in một bài thơ “Giọng Nghệ”.

  • TRẦN THÁI HỌC(Nhân đọc Sông Hương phê bình và đối thoại - Nxb văn hoá thông tin - 2003)

  • MAI BÁ ẤNNgoài sáng tác, hơn mười năm trở lại đây, Thanh Thảo còn xuất hiện với tư cách là một người viết tiểu luận - phê bình được bạn đọc rất chú ý bởi giọng văn sắc sảo với những phát hiện độc đáo, mới mẻ. Nhìn chung, phong cách viết tiểu luận-phê bình của Thanh Thảo khá nhất quán nhằm mục đích tìm ra cái hay cái độc đáo của tác phẩm văn học mà không ồn ào tranh luận, không nặng nề về lý thuyết nhưng có độ bền về tính triết lý.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNPhê bình văn học là một hình thái vận động của đời sống văn hóa văn học. Nó không phải là một thể loại văn học. Nó gắn bó huyết mạch tất yếu với vận động sáng tạo - hưởng thụ văn học.

  • HƯƠNG GIANG - PHẠM PHÚ PHONGLịch sử nói chung phán xét những gì đã qua, nhưng lịch sử nghệ thuật thì  phán xét những gì còn lại. (Thái Bá Vân)

  • VÕ TẤN CƯỜNGCon đường của thi ca và cái nhìn của nhà thơ thời hiện đại đang hướng tới tầm cao mới và cả chiều sâu thẳm bí ẩn của vô ngã ẩn khuất dưới bao biến động dữ dội của những thể chế chính trị, giáo lý và các phát minh khoa học kỹ thuật.

  • PHONG ĐIỆPXã hội hoá giải thưởng - và chuyện kiếm tiền “nuôi thơ” thời bão giá

  • CHÂU MINH HÙNGLối viết chỉ là Tự do trong một khoảnh khắc. Nhưng đó là một trong những khoảnh khắc có ý nghĩa nhất của Lịch sử, bởi Lịch sử luôn luôn và trước hết là một lựa chọn và những giới hạn của lựa chọn ấy.                                      (R. Barthes, Độ không của lối viết)

  • TRẦN THIỆN KHANHTích nhân/  dĩ thừa/  hoàng hạc khứThử địa/  không dư/  Hoàng Hạc lâuHoàng hạc/ nhất khứ/  bất phục phảnBạch vân/ thiên tải/ không du du…

  • PHẠM THỊ THÚY VINHThơ Lâm Thị Mỹ Dạ rất giàu hình ảnh. Thế giới hình ảnh trong thơ chị vừa đậm sắc màu hiện thực, ngồn ngộn hơi thở cuộc sống vừa mang tính biểu tượng cao. Điều đó đã thể hiện tài năng và sự khéo léo của nhà thơ, nhằm làm cho những bài thơ của mình không chỉ dừng lại ở những lời thuyết lí khô khan, trừu tượng. Thế giời hình ảnh bao giờ cũng gợi ra trong trí tưởng tượng của người đọc nhiều liên tưởng bất ngờ và thú vị, làm cho lời thơ thêm mượt mà, trong sáng.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   (Tiếp Sông Hương số 11-2008)Bản thể con người chỉ cấu trúc bằng cảm giác và những gì là biến tướng khả dĩ của cảm giác mà không từ bỏ cấu trúc thiên định bao gồm kết cấu thực và kết cấu ảo của cảm giác. Nếu hình dung kết cấu thực là trạng thái mô phỏng thế giới, nghĩa là cái quan hệ hấp dẫn giữa xung động thần kinh não bộ con người với xung động tiếp nhận thế giới, thì chúng ta hình dung được kết cấu ảo chỉ là sản phẩm thuần tuý do xung động nội tại của thần kinh não bộ con người.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGPhân tâm học ra đời trong ánh bình minh của thế kỷ hai mươi. Ảnh hưởng của nó đối với sáng tạo và phê bình văn học khởi đi từ cuốn “Diễn dịch các giấc mơ” của Freud và được nối dài sau đó bởi nhiều công trình của các tác giả khác nhau.

  • CAO HUY THUẦNToàn cầu hóa đang là một xu thế, một hiện tượng rộng lớn bao trùm khắp thế giới, không chỉ về kinh tế mà cả trong lĩnh vực văn hóa và đời sống. Toàn cầu hóa và chống toàn cầu hóa đã trở thành vấn đề thời sự của thế giới. Trong bối cảnh đó, yêu cầu gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là một đòi hỏi cấp thiết, có tính sống còn của mỗi dân tộc khi phải đối mặt với xu thế toàn cầu hóa, đặc biệt là trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa.Sông Hương xin giới thiệu một phần bài viết của Cao Huy Thuần như một góc nhìn thú vị về những vấn đề gai góc của thời đại.

  • NGUYỄN VĂN DÂN(*)LTS: Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ 2 của Hội Nhà văn Việt Nam diễn ra 2 ngày 4 và 5 tháng 10 năm 2006 đã khép lại nhưng âm vang của nó vẫn còn “đồng hiện” theo 2 cực... buồn vui, cao thấp. Song, dù sao nó cũng đã phản ánh đúng thực trạng, đúng “nội tình” của đời sống văn học nước nhà.

  • PHẠM PHÚ PHONGMấy chục năm qua, người đọc biết ông qua những kịch bản thơ, những bài thơ viết về tình bạn, tình yêu; về những cuộc chia tay lên đường ra trận; về đất và người Hà Nội đầy khí thế hoành tráng của tâm thế sử thi; nhưng cũng có khi bí hiểm, mang tâm trạng thế sự buồn cháy lòng của một người sống âm thầm, đơn độc, ít được người khác hiểu mình.