Những sắc thái cảm thức thẩm mỹ trong thơ Haiku Nhật Bản

15:43 02/03/2009
HÀ VĂN LƯỠNG  Thơ haiku Nhật bản là một sản phẩm tinh thần quý giá của đời sống văn hoá đất nước Phù Tang. Nó là một thể thơ đặc biệt trong thơ cổ truyền của Nhật bản. Phần lớn các nhà thơ haiku đều là các thiền sư. Chính những nhà thơ thiền sư này đã đưa thiền vào thơ. Vì thế, họ nhìn đời với con mắt nhà sư nhưng bằng tâm hồn của người nghệ sĩ.

Cho nên đối với họ, thơ với đời, đời với thiên nhiên là một, trong sự gắn kết mật thiết. Đây là điểm xuất phát để giải thích vì sao thơ haiku thấm đẫm chất thiền. Do ảnh hưởng của tư tưởng Thiền tông trong nhận thức cuộc sống nên thơ haiku thể hiện những cảm thức thẩm mỹ khác nhau. Chính điều này góp phần tạo nên tính đặc sắc của thơ haiku và khiến nó trở thành một thể thơ độc đáo.
Phát hiện và khẳng định những cái đẹp hiện hữu trong những sự vật bình thường của đời sống là một trong những nguyến lý thẩm mỹ của thơ haiku. Những cảm thức thẩm mỹ này thể hiện cái nhìn của các thi sĩ haiku trước hiện thực mang đậm màu sắc Thiền tông gắn với thiên nhiên và con người. Trong thơ haiku, các cảm thức thẩm mỹ như sabi, wabi, aware và karumi được thể hiện rất rõ nhằm diễn đạt những yếu tố tâm linh.

1. Cảm thức Sabi
Sabi (tịch) là cảm thức nổi trội của thơ haiku và thể hiện tập trung nhất tư tưởng của Thiền tông. Sabi là linh hồn của tịnh liêu, là cảm thức về sự tĩnh mịch sâu xa của sự vật, nhìn thấy chúng tự bộc lộ những điều kỳ diệu. Sabi là cô đơn nhưng là “niềm cô đơn huy hoàng”, là cảm thức hùng tráng chứ không phải là cô đơn cá nhân, không mang tính bi lụy. Nó là sự tĩnh mịch không có giới hạn. Khi con người và sự vật ở trong cảnh cô liêu, tĩnh lặng sâu xa chính là lúc tất cả đã chìm vào hư vô, thoát khỏi bản ngã để tiến vào trạng thái vô ngã. Và như vậy, sabi là niềm cô tịnh vô ngã.
Theo kinh nghiệm thiền quán, khi lắng  vào niềm tịch tĩnh thì người ta sẽ lắng nghe được sự chuyển động của vạn vật:
Ôi tiếng ve kêu
Thấm xuyên vào đá
Trong cõi quạnh hiu.  
(Basho)

Những hình ảnh trên của bài thơ haiku thể hiện một khung cảnh buồn, đìu hiu bởi tiếng ve kêu khắc khoải rơi vào “cõi quạnh hiu”. Những âm thanh mạnh và sắc của tiếng ve thể hiện niềm cô tịch vô ngã của thiên nhiên đến nỗi đá núi tưởng như mềm ra và trở nên vô ngại. Trong tiếng ve kêu, ta bước vào cõi thâm u, nơi mọi vật dung chứa lẫn nhau. Vẫn là tiếng ve như ngày nào, vẫn là đá núi hôm qua và trái tim con người vẫn rộn ràng với nhịp đập ngày thường của nó nhưng không phải ở chốn ồn ào sôi động mà chính là trong tâm thức, trong cõi tịnh liêu. Niềm cô tịch được gió đưa đi xa hơn tiếng ve, tiếng chim cu gáy có tan biến về một nơi nào đó trong không gian vô định thì trong biển thiền lắng động đó vẫn có sự xao động. Chính những âm thanh nhỏ nhoi đó làm cho sự cô liêu càng thêm cô liêu:
Gió mùa thu
Bóng dài của núi
Rung lên mơ hồ.
(Issa)

Mô tả khung cảnh của núi rừng vào một sáng thu có những cơn gió thoáng qua tạo nên một không gian vắng lặng với hình dáng bóng núi đỗ dài. Ở đây, làn gió rung lên khe khẽ làm lay động cành cây hay trong cảnh sắc thiên nhiên cô tịch đó ta cảm tưởng mơ hồ như bóng núi đang rung lên bởi từng cơn gió?. Chính cảm thức sabi thể hiện rõ trong những bài thơ haiku đã góp phần tạo thành giá trị của nó:
Nửa đêm thăm thẳm
Dòng sông Ngân hà
Rời đổi chỗ nằm
.             (Ransetsu)
Nửa đêm thức giấc nhìn lên trời, thi sĩ thấy dải Ngân hà không còn nằm ở chỗ cũ mà dời sang nơi khác. Đó là sự vận động của các vì tinh tú trong vũ trụ. Nhưng đặt nhà thơ dưới đất đang nhìn lên Ngân hà ở vũ trụ, tác giả tạo nên một cảnh cô tịnh đến huy hoàng. Trong đêm thanh vắng, con người và sự vật đều chìm vào khoảng không gian bao la vô định của vũ trụ, chìm vào cái sâu thẳm của bể đêm.

Nhà thơ đẩy cảm thức sabi đạt đến đỉnh điểm trong một bài haiku nổi tiếng:
Cánh quạ ô
Trên cây héo hắt
Chiều thu. 
(Basho)
Bằng những nét phác thảo, thi sĩ Basho đã vẽ nên một bức tranh mùa thu mang tính điển hình cao độ: tiêu điều, xơ xác, buồn tẻ... Sự im lìm của cánh quạ đen, sự héo hắt của cành cây khô và sự tĩnh mịch của chiều thu là hiện thực tạo thành cái sâu thẳm, vô hạn của cảm thức sabi. Ở đây tác giả diễn tả quang cảnh một đêm thu thật đơn sơ, giản dị và cô tịch bằng một thi pháp mà nhà nghiên cứu Henderson gọi là “nguyên lý tương quan nội tại”. Trong đó sự tương phản tương đồng được nhà thơ sử dụng hợp lý. Cả ba sự vật: con quạ, cành cây khô và đêm thu có sự đối lập nhau tạo thành một khung cảnh thật ảm đạm cô tịch. Nếu con quạ, cành cây khô là cái hữu hạn thì đối lập với nó là cái vô hạn “đêm thu”. Bài thơ tạo nên một nỗi buồn quạnh hiu của một mảng thiên nhiên và biết đâu, đó cũng chính là sự xót xa buồn tủi của chính Basho trước thế thái nhân tình đầy rẫy những chết chóc, bi thương của xã hội đương thời? Cảm nhận về bài thơ này, Henderson cho rằng: “Ở đây không chỉ đơn giản là phong cảnh héo úa đậu xuống một chiều thu giống như hình bóng một con quạ, nó còn là sự tương phản của thân hình đen muội, nhỏ xíu của con quạ với bóng tối bao la vô định của buổi chiều hôm và với nhiều điều khác nữa tuỳ người đọc”[3,174].

2. Cảm thức Wabi
Nếu cảm thức sabi là tâm điểm gắn với tư tưởng Thiền tông thì wabi (đà) lại gần gũi với các sự vật bình thường hơn. Wabi là một khái niệm của Phật giáo Thiền tông nói đến sự cảm nghiệm về sự thanh bần an lạc, sự dung dị nhưng thanh cao của cuộc sống con người và sự vật. Cũng mang ý nghĩa cô đơn nhưng nếu sabi nghiêng về cảm xúc thẩm mỹ thì wabi lại nhằm ám chỉ đến điều kiện sống và tình cảm của con người và sự vật hơn. Theo D.T.Suzuki: “Sabi nghiêng về đồ vật cá nhân, trong  khi wabi là sống cuộc đời bình thường trong sự thanh bần hay tri túc, thiểu dục. Do đó, sabi quy về cảnh vật có tính khách quan hơn còn wabi thì thiên về cá tính chủ quan hơn” [6,25]. Đó là những cảm nhận bất ngờ về những cái “như thế” của sự vật tưởng chừng như rất nhỏ nhoi như con ốc nhỏ, một chiếc lá rơi, một giọt sương mai...

Cũng như con quạ đậu cành khô, con ếch nhảy xuống ao, tiếng ve thấm xuyên vào đá, thi sĩ mô tả cánh con chim gõ kiến đang gõ vào sự cô tịch cái nhịp điệu bình thường của cuộc sống:
Mái lều im
Một con chim gõ kiến
  Gõ ngoài trụ hiên.
(Basho)
Trong sự lặng im của mái lều và cái trụ hiên bỗng vang lên tiếng chim kiến đang gõ vào trụ hiên hay gõ vào không gian vắng lặng?. Sự hiện diện của loài vật đang hoạt động là một điều tự nhiên được thi sĩ cảm nhận một cách tinh tế tạo nên cảm xúc thẩm mỹ ở người đọc. Một chú ốc bám vào ổ khoá cổng cũng là một việc rất bình thường, nhưng nó được thi sĩ Issa miêu tả:
Trên cổng bụi cây
Nằm thay cho ổ khoá
Chú ốc nhỏ này
.   (Issa)
Wabi nói đến sự thiếu thốn, nghèo nàn về vật chất và các phương tiện sống, nhưng chứa đựng trong đó là một cái gì đó thanh cao, phóng khoáng và lành mạnh. Một đêm lạnh trở mình tỉnh giấc vì gió rét, Basho viết một bài thơ haiku:
Sương giá nửa đêm
Không ngủ được
Tôi mượn áo bù nhìn.
(Basho)
Nhà thơ thể hiện một cảm xúc rất chân thành tự nhiên: lạnh không ngủ được thì thức giấc. Nhưng ý thơ chuyển sang đột ngột và bỗng kết thúc với câu “tôi mượn áo bù nhìn”. Một thực cảnh đến đau lòng cho thi sĩ, nghèo đến mức mùa đông không đủ áo để mặc, không đủ chăn ấm. Nhưng biết làm sao bây giờ?. Phải đành “mượn áo bù nhìn” vậy. Áo “bù nhìn” thay áo người để bớt lạnh - Một ý tưởng nghịch lý, trớ trêu nhưng mang tính chất ngang tàng, phóng khoáng.

3. Cảm thức Aware
Cảm thức aware là một khái niệm thuộc phạm trù mỹ học xuất hiện khá sớm liên quan đến quan niệm của Phật giáo được văn chương Nhật sử dụng khá rộng rãi. Ngay từ thế kỷ XI, trong thơ cổ và trong tiểu thuyết Truyện Genji (Murasaki), nhiều tác giả đã nói đến aware.
Aware (bi ai) là niềm bi cảm, xao xuyến trước mọi vẻ đẹp não lòng của sự vật. Nó tương tự như một âm vang vọng lại khi những gì đã qua, sắp qua sẽ tác động vào thế giới hiện hữu bằng một âm thanh nào đó. Nhưng nó không nghiêng về cái bi lụy ngông cuồng của lãng mạn hay nỗi bi tráng ngây ngất của bi kịch mà aware là một bi cảm thâm trầm.
Trước cái chết của một người bạn, Basho viết:
Trăng rụng rồi
Bốn góc bàn quen thuộc
Còn lại mà thôi.

Ở đây, sự mất mát đối với thi nhân quá lớn nhưng tác giả không hề nói đến từ “chết” mà dùng những sự vật quen thuộc thường ngày để diễn tả sự ra đi của bạn. Như vậy, đây là bài ca bi ai về cái chết của một người bạn. Trăng rụng là nói đến cái chết ấy. Nhưng bốn góc bàn, nơi người ấy thường ngồi vẫn còn lại như tất cả những cái khác vẫn còn tồn tại trên cõi đời. Đây không phải nói đến cái bi kịch của con người mà là sự cảm nhận của thi sĩ về sự sống và cái chết cũng đơn giản, bình dị như bốn góc bàn ấy. Trong cuộc đời, mất và còn, khoảnh khắc này và khoảnh khắc khác, con người ra đi còn sự vật gần gũi thì ở lại... tất cả là niềm bi cảm của con người.
Một tiếng kêu thảng thốt của con  chim nhạn đang đi tìm chỗ trú giữa mùa đông thâm u gợi lên cảm thức phù du của trần thế và một niềm thương cảm ở người thi sĩ:
Kêu chi, nhạn ơi
Đi đâu cũng thế
Cõi phù thế thôi
. (Issa)

4. Cảm thức Karumi.
Karumi (khinh) bắt nguồn từ chữ karushi, nghĩa là nhẹ nhàng, thanh thoát. Nó dung hợp giữa tính chân phương trong phong cách và sự tinh tế trong nội dung. Karumi được nói đến như một phong thái ung dung, tự tại. Chính tâm thế đó đã tạo nên ở các thi sĩ haiku có cái nhìn rất hiện thực khi phản ánh cuộc sống và thấy được vẻ đẹp của con người và sự vật dẫu cho nó bé nhỏ và tưởng chừng như bị quên lãng. Một đoá phù dung cũng đủ góp phần tạo nên hương sắc của mùa:
Mưa mù sương
Phù dung một đoá
Làm mùa lên hương.
(Basho)
Những cánh hoa anh đào vương vãi khắp nơi theo làn gió, “đọng” vào bữa ăn khiến cho cả người và thức ăn đều thấm một màu hồng của anh đào:
Dưới cây lao xao
Chén canh, đĩa cá
Đều vương anh đào
. (Basho)

Thi sĩ đã mô tả một bức tranh đơn sơ, mộc mạc và thanh bần của một bữa cơm đạm bạc nhưng chính những cánh anh đào vương vào chén canh, đĩa cá làm cho “bữa tiệc hoa” trở nên thú vị, nên thơ.
Phát hiện từ trong những cái bình thường, cái đẹp bình dị, e ấp thể hiện ý nghĩa nhân sinh cao thượng cũng là một cảm thức mang tính karumi. Con người phải biết chiêm ngưỡng cái đẹp để vơi đi những khổ đau nhọc nhằn của cuộc sống phức tạp, bề bộn thường ngày. Đến các loài chim muông, ong bướm cũng không lãng quên cái đẹp:
Bươm bướm nào biết đâu
Một bông hoa mới nở
  Bên trời mùa thu
.   ( Basho)
Karumi thường mang đến cho người đọc những cảm thức nhẹ nhàng, thanh thoát  thông qua những khám phá xung quanh đời thường. Trong cuộc sống, con người bị cuốn hút vào vòng danh lợi, đam mê danh vọng mà quên mất những cảm xúc lãng mạn và những phút giây thần tiên, thăng hoa của cuộc đời. Nhà thơ Basho đã nhắc hộ mọi người rằng, phải có những giây phút để cho tâm hồn lắng đọng, siêu thoát thì mới cảm thức được cái đẹp của thiên nhiên:
Qua cánh cổng con
Hoa đào ta gặp
Cả trong lẫn ngoài.

Từ cảm thức về sự cô tịch (sabi) đến nhận ra cái đẹp ở sự bình dị, thanh thoát (wabi) và khẳng định cái thanh cao, ung dung (karumi) trong con người và sự vật là những biểu hiện của sắc thái thẩm mỹ mang dấu ấn Thiền tông trong thơ haiku nói chung, đặc biệt trong thơ haiku của Basho. Đời sống văn hóa Nhật Bản thấm đậm tính chất Thiền tông. Điều này không chỉ thể hiện trong văn học nghệ thuật, (đặc biệt trong thơ haiku) mà cả trong đời sống văn hoá tinh thần của người Nhật Bản từ xưa đến nay. Đặc điểm này góp phần tạo nên nét bản sắc của văn hoá Nhật Bản trong suốt chiều dài của lịch sử dân tộc.
H.V.L
(nguồn: TCSH số 195 - 05 - 2005)

 



--------------------
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
[1] Đỗ Tùng Bách (2000), Thơ thiền Đường Tống, NXB Đồng Nai.
[2] Nhật Chiêu (1994), Basho và thơ haiku, NXB Văn học và Trường ĐHTH thành phố Hồ Chí Minh.
[3] Nhật Chiêu (1992), Nhật Bản trong chiếc gương soi, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[4] Nhật Chiêu (1998), Thơ ca Nhật Bản, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[5] G.B.SanSom (1989), Lược sử văn hoá Nhật Bản (2 tập), NXB Khoa học xã hội.
[6] D.T.Suzuki (2000), Thiền, NXB thành phố Hồ Chí Minh.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN HỮU HỒNG MINH1- "Thơ trẻ- Những giá trị mới" là một "mưu mô" của nhà phê bình trẻ Nguyễn Thanh Sơn và nhóm "Văn nghệ mới" (bao gồm Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Vĩnh Tiến, Dạ Thảo Phương... và một số người khác) dự tính tập hợp, tuyển chọn 1 tuyển thơ của 10 (hay nhiều hơn) tác giả trẻ từ 30 tuổi trở xuống, xuất hiện trong vòng 3 năm cuối cùng của thế kỉ để trình làng giới thiệu chân dung thế hệ mình.

  • NGUYỄN HOÀN Trịnh Công Sơn là một hiện tượng độc đáo của âm nhạc và văn hoá Việt Nam được ái mộ không chỉ ở trong nước mà cả ở nước ngoài. Vì thế mà từ khi ông qua đời đến nay đã có trên chục đầu sách viết về ông, một số lượng hiếm thấy đối với các nhạc sĩ khác. Gần đây có cuốn “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của Ban Mai do Nhà xuất bản Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 2008. Với niềm ngưỡng mộ tài hoa và nhân cách nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tôi đã hăm hở tìm đọc cuốn sách mới này nhưng tiếc thay, chưa kịp trọn nỗi mừng đã phải thất vọng về những trang viết đánh giá đầy sai lệch và thiếu sót, phiến diện về Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam.

  • HOÀNG QUỐC HẢIThơ Lý - Trần có mạch nguồn từ Đinh - Lê, nếu không muốn nói trước nữa. Rất tiếc, nguồn tư liệu còn lại cho chúng ta khảo cứu quá nghèo nàn.Nghèo nàn, nhưng cũng đủ tạm cho ta soi chiếu lại tư tưởng của tổ tiên ta từ cả ngàn năm trước.

  • NGUYỄN VĂN THUẤN          (Nhóm nghiên cứu - lý luận phê bình trẻ)Thời gian gần đây, tại Việt , các tác phẩm của nhà văn Nhật Bản H.Murakami thường xuyên được dịch và xuất bản. Là một giọng nói hấp dẫn trên văn đàn thế giới, sáng tác của ông thu hút đông đảo công chúng và dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, phê bình. Một trong những tiểu thuyết làm nên danh tiếng của ông là Rừng Nauy.

  • PHAN TÂMQuê hương Phan Đăng Lưu, xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, cách Kim Liên, Nam Đàn, quê hương Hồ Chí Minh khoảng 60 km.Hai nhân cách lớn của đất Nghệ An. Không hẹn mà gặp, xuất phát từ lương tri dân tộc, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, đến chủ nghĩa Mac - Lê nin, thành hai chiến sĩ cộng sản Việt Nam nổi tiếng.

  • THÁI DOÃN HIỂUNhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

  • HÀ  ÁNH MINHBài thứ nhất, Một cuộc đời "Ngậm ngải tìm trầm" của Vương Trí Nhàn, đăng trên tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam số Xuân Canh Thìn năm 2000, và bài thứ hai "Sư phụ Thanh Tịnh làm báo tết" của Ngô Vĩnh Bình, đăng trên báo Văn Nghệ, số Tết cũng năm Canh Thìn 2000. Bài đầu tiên viết dài, giọng văn trau chuốt điệu nghệ. Bài sau ngắn, mộc mạc.

  • LÊ THỊ HƯỜNGDẫu mượn hình thức của thể kí, dẫu tìm đến vần điệu của thơ, điểm nhất quán trong sáng tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường là một cái tôi say đắm thiên nhiên. Đằng sau những tài hoa câu chữ là một cái tôi đa cảm - quá chừng là đa cảm - luôn dành cho cỏ dại những tình cảm lớn lao.  

  • BỬU NAM1. Nếu văn xuôi hư cấu (đặc biệt là tiểu thuyết) chiếm vị trí hàng đầu trong bức tranh thể loại của văn học Mỹ - La tinh nửa sau thế kỷ XX, thì thơ ca của lục địa này ở cùng thời gian cũng phát triển phong phú và rực rỡ không kém, nó tiếp tục đà cách tân và những tìm tòi đổi mới của những nhà thơ lớn ở những năm 30 - 40.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết là một bản anh hùng ca bất tử của dân tộc Nga trong thế kỷ XX (1941-1945). Nó mãi mãi đi vào lịch sử vẻ vang và oanh liệt, không chỉ của đất nước Xô Viết mà còn cả với nhân loại tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới, khẳng định bản chất tốt đẹp và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con ngưòi Xô Viết.

  • LƯƠNG THỰC THULTS: Lương Thực Thu, sinh năm 1903 tại Bắc Kinh, thời nhỏ học ở trường Thanh Hoa. Năm 1923 du học tại Mỹ. Năm 1926 về nước, lần lượt dạy học ở trường Đại học Đông Nam, Đại học Thanh Đảo, Đại học Bắc Kinh, và Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Năm 1949 sang ở Đài Loan, chủ yếu giảng dạy ở Đại học Sư phạm Đài Loan. Năm 1966 nghỉ hưu, năm 1987 ốm chết tại Đài Bắc.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG   (Đọc “Lý luận và văn học”, NXB Trẻ 2005 của GS.TS Lê Ngọc Trà)Ra mắt bạn đọc năm 1990, năm 1991, cuốn sách “Lý luận và văn học” của Giáo sư - Tiến sĩ Lê Ngọc Trà được trao giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. 15 năm qua, những tưởng một số vấn đề về lý luận văn học mà cuốn sách đề cập đã không còn mới, đã “lạc hậu” so với tiến trình phát triển của văn học. Nhưng không, khi đọc lại cuốn sách được nhà xuất bản Trẻ tái bản lần thứ nhất năm 2005, những vấn đề mà GS.TS Lê Ngọc Trà đề cập vẫn còn nóng hổi và giữ nguyên tính thời sự của nó.

  • TRẦN ĐÌNH SỬLí luận văn học Việt Nam thế kỉ XX đã trải qua ba lần thay đổi hệ hình tư duy. Lần thứ nhất diễn ra vào những năm 1932 đến 1945 với việc hình thành quan niệm văn học biểu hiện con người, xã hội, lấy thẩm mĩ làm nguyên tắc, chống lại quan niệm văn học thời trung đại lấy tải đạo, giáo huấn, học thuật làm chính tông, mở ra một thời đại mới trong văn học dân tộc.

  • HỒ THẾ HÀĐà Linh - Cây bút truyện ngắn quen thuộc của bạn đọc cả nước, đặc biệt, của Đà Nẵng với các tác phẩm Giấc mơ của dòng sông (1998), Nàng Kim Chi sáu ngón (1992),Truyện của Người (1992) và gần đây nhất là Vĩnh biệt cây Vông Đồng (1997). Bên cạnh ấy, Đà Linh còn viết biên khảo văn hoá, địa chí và biên dịch.

  • NGÔ MINHBữa nay, người làm thơ đông không nhớ hết. Cả nước ta mỗi năm có tới gần ngàn tập thơ được xuất bản. Mỗi ngày trên hàng trăm tờ báo Trung ương, địa phương đều có in thơ. Nhưng, tôi đọc thấy đa phần thơ ta cứ na ná giống nhau, vần vè dễ dãi, rậm lời mà thiếu ý.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     Ba công trình dày dặn nghiên cứu về Chủ tịch Hồ Chí Minh của cùng một tác giả, cùng được xuất bản trong năm 2005 kể cũng đáng gọi là "hiện tượng" trong ngành xuất bản. Ba công trình đó là "Hồ Chí Minh - danh nhân văn hóa" (NXB Văn hóa Thông tin, 315 trang), "Hồ Chí Minh - một nhân cách lớn" (NXB Văn hóa thông tin, 510 trang) và "Đạo Khổng trong văn Bác Hồ" (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 375 trang).

  • PHAN CÔNG TUYÊNLTS: Cuộc thi tìm hiểu “60 năm Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Tư tưởng - Văn hoá trung ương, website Đảng Cộng sản Việt Nam phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát động trong cả nước. Tại Thừa Thiên Huế, cuộc thi được phát động từ ngày 7/5/2005 đến ngày 10/7/2005; Ban tổ chức cuộc thi đã nhận được 160.840 bài dự thi của rất nhiều tầng lớp nhân dân, nhiều thành phần trong xã hội tham gia. Điều này chứng tỏ cuộc thi mang nhiều sức hấp dẫn. Sông Hương xin trích đăng báo cáo tổng kết cuộc thi của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, Trưởng Ban tổ chức cuộc thi tại Thừa Thiên Huế.

  • TRẦN THỊ THANHTừ Hán Việt là một lớp từ khá quan trọng trong ngôn ngữ tiếng Việt của người Việt Nam. Với con số 60% - 70% từ Hán Việt có trong tiếng Việt, nó đã và đang đặt ra một nhiệm vụ cấp thiết làm thế nào để cho mọi người dân Việt Nam, đặc biệt là tầng lớp thanh, thiếu niên viết và nói đúng tiếng Việt trong đó có từ Hán Việt.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂN LTS: Bài dưới đây là tham luận của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân đọc trong Hội nghị Lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương, tháng 12-2008. Tác giả có những nhận định khá mới mẻ, những đề xuất khá hợp lý và khá mạnh dạn, tất nhiên bài viết sẽ không tránh phần chủ quan trong góc nhìn và quan điểm riêng của tác giả. Chúng tôi đăng tải gần như nguyên văn và rất mong nhận được những ý kiến phản hồi, trao đổi, thạm chí tranh luận của bạn đọc để rộng đường dư luận.S.H