Những Cuốn sách tôi đã đọc hồi còn bé [1]

09:02 04/10/2011
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGNhững cuốn sách đã giữ một vị trí đặc biệt trong thế giới tuổi thơ của tôi; trước hết là những sách giáo khoa tôi đã học trong những ngôi trường đầu tiên của đời mình, dưới thời Pháp thuộc.

Hoàng Phủ Ngọc Tường (trái) và Nguyễn Trọng Tạo năm 1986 - Ảnh: TL

Dù trong hoàn cảnh đất nước bị nô lệ, và dù những hạn chế hiển nhiên của chúng, tôi cho rằng những nhà sư phạm thời đó đã soạn ra những sách "giáo khoa thư" không đến nỗi tồi. Những bài vở trong đó thí dụ như "Ai bảo chăn trâu là khổ", như "Chốn quê hương đẹp hơn cả", từ bao giờ đã ràng buộc tâm hồn tôi với cái mảnh đất nguồn cội ấy của mỗi người Việt Nam, gọi là "làng", dù cho đến lúc đó, tôi chưa bao giờ nhìn thấy làng tôi cả. Cũng như thế, những bài khác đã dạy cho tôi, bằng một giọng mộc mạc nhưng gây ấn tượng mạnh về lòng biết ơn cha mẹ và thầy giáo, về tình bạn, v.v... Riêng bài ca dao "Con cò mà đi ăn đêm" thì ở mỗi độ tuổi của đời người tôi lại cảm nhận một cái hay riêng của nó, và cho đến bây giờ, tôi cảm thấy rằng tôi vẫn chưa đi thấu tận cùng vẻ đẹp của bài học thuộc lòng thuở nhỏ ấy. Đọc bài thơ "Quê Hương" của Giang Nam, tôi nhận ra rằng những trang sách thời thơ ấu xa xôi kia vẫn tiếp lục giữ sức nuôi dưỡng lâu dài của nó, để cuối cùng phát triển thành tình cảm lớn của nhà thơ. Nói điều này, tôi chỉ muốn lưu ý thêm một chút, về tầm quan trọng của việc chọn và soạn các sách giáo khoa dùng ở các trường phổ thông cơ sở, đặc biệt là cho học sinh cấp I. Bởi vì những cuốn sách "Tiếng Việt" đó, không phải chỉ là tập đọc, chính tả và ngữ pháp, mà còn đưa các em ngay từ phút đầu, tiếp cận với cái mà sau này chúng sẽ hiểu là "văn học". Cách đây ba năm, cháu bé của tôi vào lớp Một, và tôi thường giúp cháu trên cuốn sách học vần của cháu. Tôi nhớ có một bài học đại để như thế này: "Bé có ba vỏ hến, chú Tư cho Bé sáu vỏ hến, vậy Bé có chín vỏ hến". Bài học có tranh minh họa hẳn hoi, ôi, những chiếc vỏ hến! Tôi không hiểu chú Tư và những vỏ hến kia sẽ giúp ích gì cho tâm hồn của các cháu, trong khi một năm trước đó, ở mẫu giáo, các cháu đã biết dùng màu để vẽ những bông hoa. May mà những bài học vô lý kiểu ấy đã bị loại bỏ khỏi những sách giáo khoa mới. "Tôi đã học văn như thế nào?" Theo tôi, câu trả lời đúng cho mọi người sẽ là: "Tôi đã học văn trước tiên từ chính bài học chữ cái vỡ lòng của tôi".

Tuổi đọc sách của tôi bắt đầu vào những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Gia đình tôi rời Huế về sống ở vùng kháng chiến, giữa một thung lũng yên tĩnh ở miền rừng núi tỉnh Quảng Trị cũ. Có người anh ở làng lên chơi, mang cho tôi mượn một chồng sách, thuộc tủ "Sách Hồng" và "Truyền Bá". Tôi vừa rời một ngôi trường Pháp, lần đầu tiên tôi thực sự tiếp xúc với văn học qua hai tủ sách thiếu nhi ấy; và tôi đã bị cuốn hút hoàn toàn vào thế giới tuổi thơ, mà tôi cảm thấy thực sự là thế giới của tôi. Tôi mê sách đến độ mỗi tháng một lần, tôi lại theo ba hoặc mẹ tôi về làng, đến nhà bác tôi để đổi lấy sách mới. Làng tôi ở vùng sâu gần thị xã: từ vùng tự do về, chúng tôi phải vượt đường quốc lộ vào ban đêm, phải mặc màu trắng để nằm lẫn vào những đụn cát mỗi khi gặp xe tuần tiểu của địch. Nhà bác tôi ở nông thôn, không hiểu sao lại nhiều sách đến thế, cơ man nào là sách thiếu nhi thành một kho dự trữ vô tận cung cấp món ăn tinh thần cho tôi suốt hơn ba năm tôi sống ở miền rừng hẻo lánh. Thường ngày khi nắng lên, tôi ôm một bó sách băng qua đồi, đến nơi đọc sách riêng của tôi: ấy là một khu mộ cổ im mát suốt ngày dưới bóng những cây cổ thụ, nằm giữa một cánh rừng sim muồng và trăm thứ quả dại đầy mật ngọt, tôi tha hồ ăn cho đến cuối mùa thu. Chính nơi cái "thư viện" hoang dã đó, tôi đã ngốn hầu hết các sách thiếu nhi xuất bản hồi tiền chiến, với những tác giả mà trong lặng lẽ, đã trở thành những bậc thầy của tâm hồn tôi: Xuân Diệu, Thâm Tâm, Thạch Lam, Tô Hoài, v. v... Ai đã đọc đều biết, toàn bộ hai tủ sách ấy đều gồm những phóng tác các truyện cổ dân gian, sự tích các anh hùng dân tộc kể theo dạng truyền thuyết, truyện loài vật và những câu chuyện đời có ngụ ý giáo dục. Tôi nhớ đặc điểm riêng của hai tủ sách đó: Sách Hồng thường tươi vui nhẹ nhàng, và sách Truyền Bá, in trên giấy gió, chứa đựng những tình đời, tình người hơi bùi ngùi nhưng bao giờ cũng đầy ưu ái, nhân hậu, làm tôi nhớ lâu. Trong số này, có hai tác phẩm đều là của Tô Hoài, có lẽ đã phát động ở nơi tôi những nét của tính cách lâu dài về sau: "Con chim gi sừng", đã đánh thức một lần và mãi mãi trong tôi nỗi ước mơ được đi khắp đất nước, và "Dế Mèn phiêu lưu ký" giúp tôi phát hiện tình bạn như một sức mạnh kỳ diệu của tâm hồn.

Do đọc nhiều, trí phán đoán từ lúc nào cũng đã hình thành trong tôi, đầu tiên là dưới dạng trực giác nhậy cảm. Truyện "Chú Bé Tý hon" của Pe-rôn [2] làm tôi thích thú về trí thông minh tuyệt vời của chú, nhưng tôi lại thấy ghê rợn khi nghĩ rằng ở đâu đó lại có những bố mẹ vì nghèo đói đã tìm mọi cách phĩnh con, đem thả chúng vào rừng để giành lấy phần ăn về mình. Còn cái ông Quách Cự người Tàu trong truyện Nhị Thập Tứ Hiếu - do mẹ tôi kể lại - thì cũng vì đói, đã đem chôn sống con để giành phần bánh nuôi mẹ; chuyện này cũng làm tôi vừa cảm động vừa ớn xương sống. Tôi liên hệ hai cảnh đói đó với hoàn cảnh trong truyện Dế Mèn: khi đói quá sắp chết thì Dế Dũi đã đưa càng cho Dế Mèn đề nghị bạn ăn lấy thịt mình để mà sống. Tôi nhận ra rằng chính Mèn và Dũi mới là nhân vật của tâm hồn tôi, đã làm tôi chảy nước mắt.

Trước khi tạm biệt khu rừng này, tôi muốn giới thiệu một nét riêng về nó, có liên quan đến câu chuyện tôi đang trình bày: đó là một vùng đồi và thung lũng đẹp nhất mà tôi đã từng sống, dù rằng sau này tôi đã có dịp trải qua gần mười năm sống với rừng núi thời chống Mỹ. Hồi chiến tranh đó, giặc Pháp ít khi càn lên vùng này, pháo và bom cũng hầu như không có, tuổi thơ của tôi cứ việc sa đà với thiên nhiên quanh tôi. Tôi gia nhập vào một cộng đồng xã hội mới là những bạn nhỏ chăn bò, mùa xuân đi bẫy chim, mùa hạ lang thang ăn trái chín trên đồi, mùa thu đặt lờ bắt cá dọc những con suối và mùa đông mang tơi lá đi hái nấm dưới những bụi cây muồng. Tôi không bao giờ quên được cái mặt hồ xanh biếc ấy trong thung lũng xóm Mộ, nơi tôi và lũ bạn ngồi lại nhóm lửa nướng ăn những vật nhỏ săn bẫy được, vừa ngắm bóng những đàn chim trời lặng lẽ bay qua mặt nước. Cũng không bao giờ tôi tìm thấy lại được ở bất cứ một nơi nào khác, những đêm trăng vằng vặc ấy, mấy chị em tôi nép mình sau những gốc sim mải mê ngồi xem đàn thỏ rừng nhảy múa dỡn trăng trên thảm cỏ bát ngát của cái vườn hoang nọ... Thiên nhiên trong cuộc vận động mùa màng kỳ ảo của nó đã in vào tâm hồn thơ bé của tôi một dấu ấn không bao giờ phai mờ; và sau này trở thành một tình cảm bầu bạn không thể thiếu được khi tôi suy nghĩ về một mảnh đất. Dù có một vài người nghĩ khác, tôi vẫn quả quyết rằng thói quen chăm chú theo dõi các cảnh tượng của tạo vật là một thái độ có ích đối với nhà văn, bởi vì thiên nhiên sẵn sàng mang đến vô vàn những thông tinh về cái đẹp của vũ trụ, và thẩm mỹ là một trong những chức năng của văn học. Nhưng không phải chỉ có cái đẹp ngoại vật, thiên nhiên là yếu tố thống nhất biện chứng với ý niệm về Tổ quốc, với tình yêu Tổ quốc, thiên nhiên chính là diện mạo sâu thẳm của Tổ quốc.

Cho phép tôi quay lại với câu chuyện về những cuốn sách của tôi.

Năm thứ ba của cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi theo gia đình về sống ở làng quê, làng tôi bấy giờ đã trở thành khu hoạt động của du kích. Tôi trở lại tiếp tục việc học ở một ngôi trường đặt trong một cái đình làng cổ tại thị trấn Chợ Sãi; mỗi lần đi về, chúng tôi luôn luôn được các chú tự vệ hướng dẫn đúng vị trí an toàn để vượt qua cái hàng rào chiến đấu ngăn cách giữa làng tôi và khu vực địch kiểm soát. Tôi giữ mãi suốt đời hình ảnh người thầy giáo dạy tôi năm ấy, khuôn mặt vuông và gầy, da trắng xanh, giọng nói hết sức dịu dàng và cái nhìn thật buồn. Thường thầy tôi vẫn mang theo một em bé gái, để cho nó nói bi bô và chạy vòng quanh trong lớp. Đó là đứa con duy nhất còn lại của thầy tôi, vợ và các con khác của thầy đã bị giặc Pháp bắn chết trong một làng quê ở Vĩnh Linh. Tôi ngồi ở bàn đầu, ngay trước mặt của thầy; có hôm cả lớp đang cắm cúi làm toán, tôi chợt nghe mấy tiếng "tôc, tôc" rất khẽ. Tôi ngẩng lên nhìn: từ đôi mắt buồn bã của thầy tôi, những giọt nước mắt lăn tròn, rơi xuống quyển sổ gọi tên. Tôi hiểu, đó là vết thương chiến tranh đang chảy máu trong trái tim thầy. Từ đó, những ngày chủ nhật tôi thường lên nhà thầy để chơi đùa với em bé con thầy. Hôm ấy, thầy dúi vào tay tôi một cuốn sách nhỏ, và dặn: "Ở dưới ấy (ở làng tôi) hãy đọc cẩn thận, Tây nó nghi". Đó là cuốn "Thù nhà nợ nước" của nhà văn Lý Văn Sâm. Tôi mang về đọc luôn một hơi, hôm sau mang trả thầy tôi và xin mượn cuốn khác. Chẳng bao lâu, thầy tôi đã hết sách đề cho mượn. Thấy tôi quá ham đọc sách, thầy cho tôi tiền để tôi lên thị xã tự tìm mua lấy. Tôi dò theo bảng danh mục ghi các cuốn sách đã xuất bản và sách "đón đọc", tôi mua và đọc không sót cuốn nào của Nhà xuất bản Tân Việt Nam: Thù nhà nợ nước, Mười năm nuốt hận, Mây trôi về Bắc, Bên kia phòng tuyến Pháp, Mẹ cũng chết vì tổ quốc, Xin đắp mặt tôi mảnh lụa hồng... hầu hết đều là của Lý Văn Sâm. Tất cả tủ sách đó đều chỉ có một đề tài, về cuộc kháng chiến chống Nhật và chống Pháp ở Nam Bộ, không hiểu bằng cách nào vẫn xuất bản công khai đều đều ở Sài Gòn hồi đó. Lại giống như cảnh băng qua đường quốc lộ ban đêm mấy năm trước, bây giờ tôi lòn qua hàng rào chiến đấu, hoặc là chạy băng đồng qua những cuộc càn của Pháp, luôn luôn với những cuốn sách Lý Văn Sâm trong tay. Nhưng bây giờ tôi đã là độc giả của những cuốn sách thiếu nhi khác, trong đó tất cả nhân vật đều lao mình trong lửa khói của cuộc kháng chiến đang diễn ra quanh tôi hàng ngày. Rồi một buổi tối, một chú cán bộ vào nhà, gọi tôi giao nhiệm vụ: dùng bước chân để đo chiều dài, rộng của trụ sở quận lỵ Triệu Phong của địch. Tôi làm việc đó một cách dễ dàng, vẽ cả bản sơ đồ bố trí của địch quanh căn cứ và nộp cho chú chỉ nội trong tối hôm sau. Vâng, tôi là một độc giả đã trưởng thành.

Nhớ năm ấy ở trên rừng, nghe đài phát thanh giới thiệu Hội Văn nghệ Giải Phóng có tên nhà văn Lý Văn Sâm làm Tổng thư ký tôi đã kêu lên một tiếng vui mừng tưởng như gặp lại người cũ vừa thoát ly kháng chiến. Anh em quây lại yêu cầu tôi giới thiệu về nhà văn, và đều chưng hửng khi nghe tôi trả lời: "Tôi chưa hề biết nhà văn Lý Văn Sâm là ai cả, ngoài những cuốn sách thiếu nhi của ông tôi đã đọc cách đây hai mươi năm". (Nhân đây, tôi xin phép nói thêm một điều: với tư cách độc giả trung thành, tôi vẫn mong đợi một tuyển tập Lý Văn Sâm; lý do là văn học dành cho thiếu nhi về cuộc kháng chiến chống Pháp quả thật là hiếm hoi).

- "Tôi đã học văn như thế nào?". Thực tình là hồi ấy tôi chưa bao giờ có ý học để làm văn cả. Tôi chỉ đọc sách theo nỗi ham mê hồn nhiên, và may mắn thay tôi đã gặp được những cuốn sách tốt (dù chỉ là tốt ở một vài mặt nào đó đi nữa), theo tôi nghĩ. Những cuốn sách đó, phù hợp với trình độ tiếp thu của tôi ở từng lứa tuổi, đã nói với tôi một cách dịu dàng, về lòng nhân hậu biết yêu thương con người tình yêu lẽ phải, dần dần đi đến tình cảm yêu quý và kính trọng đối với Tổ quốc và nhân dân của của mình. Để trở thành nhà văn, tất nhiên là còn phải làm nhiều việc khác, phải được đào tạo ở nơi mà Mắcxim Goócki từng gọi là "trường đại học" của ông chính là thực tiễn CUỘC SỐNG, và còn phải lao động nghệ thuật, vân vân... Nhưng ở bất cứ nhà văn chân chính nào, tôi cũng đều nhìn thấy những nét lớn đó của nhân cách, là lý tưởng Tổ quốc và chủ nghĩa nhân đạo.

Và như vậy thì những cuốn sách tốt luôn luôn là ngọn gió góp lại từ bốn phương, để đem gieo vào tâm hồn người đọc trẻ tuổi của chúng những hạt giống quý không chờ đợi, những "mầm mống văn học". Hóa ra tôi chỉ nói chuyện về tuổi thiếu nhi thôi sao? Vâng, nhưng mà Lép Tôn-xtôi đã từng nói với sự cường điệu cố ý, rằng tất cả những tri thức thu thập được trong quãng đời về sau của ông thì chẳng có gì quan trọng hơn so với những gì ông đã hiểu biết được trong thời thơ ấu.

Huế tháng 11-1985
H.P.N.T
(17/2-86)


--------------------
(1) Trong loạt bài cộng tác của các nhà văn với Sở Giáo dục Nghĩa Bình dưới đề tài "Tôi đã học văn như thế nào?"
(2) Nhà văn viết truyện thiếu nhi Pháp (1628 - 1703)












Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sáng tác văn học của nhà văn Lỗ Tấn, Cỏ dại  là tập thơ văn xuôi giàu tính hiện đại nhất xét về tư duy, tư tưởng và hình ảnh. Tuy nhiên trong một thời gian dài, phẩm chất nghệ thuật này đã không được nhìn nhận đúng mức.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Trích đăng Lời giới thiệu “Tuyển tập Minh triết phương Đông - Triết học phương Tây” của Hoàng Ngọc Hiến)