Những chí sĩ tham gia Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: Thượng thư Bùi Bằng Đoàn một lòng vì dân tộc

15:03 07/09/2015

Từ Thượng thư Bộ Hình triều Nguyễn, cụ Bùi Bằng Đoàn đã vượt qua những định kiến của thời cuộc, của chế độ cũ - mới để tham gia chính quyền cách mạng.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Hồ Chủ tịch và Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn (từ trái sang) tại Lễ thụ phong quân hàm Đại tướng Võ Nguyên Giáp, ngày 28.5.1948 - Ảnh: tư liệu

Lần nào hầu chuyện PGS Nguyễn Văn Hoàn (1931 - 2015), nguyên Phó viện trưởng Viện Văn học, cũng có những khoảnh khắc bất ngờ. Tôi không có ý định tìm hiểu về mối quan hệ của ông với người anh cọc chèo là Đại tướng Võ Nguyên Giáp; nhưng có hôm, ông tạt ngang, không theo mạch chuyện về những năm tháng đèn sách ở Trường dự bị đại học Liên khu Tư (1952 - 1953) nữa.

Với chất giọng xứ Nghệ, ông he hé một chi tiết: “Năm 1945 - 1946, Cụ Hồ muốn đoàn kết tất cả chứ không phải riêng một mình ai, cụ thể như ông Bùi Bằng Đoàn là Thượng thư Bộ Hình”. Trong dịp mừng thọ 95 tuổi người anh cả của Quân đội Nhân dân VN (2005), tôi đã thấy bức ảnh Đại tướng Võ Nguyên Giáp tay phải cắp mũ bộ đội đính sao vàng năm cánh, quân phục gọn gàng, ở giữa là Chủ tịch Hồ Chí Minh và ngoài cùng là một vị nhân sĩ cao tuổi, cũng mặc áo nâu như Cụ Hồ. Ngày 28.5.1948, lễ thụ phong vị đại tướng đầu tiên của quân đội giữa “Thủ đô gió ngàn”. Nhà văn Sơn Tùng, người dành cả đời để nghiên cứu và viết sách về Hồ Chí Minh, nói người mặc áo nâu cạnh Cụ Hồ là cụ Bùi Bằng Đoàn, Trưởng ban Thường trực Quốc hội, nguyên Hình bộ Thượng thư, Cơ mật viện đại thần triều vua Bảo Đại.

Thanh liêm, chính trực

Bùi Bằng Đoàn (1889 - 1955) sinh ra trong một gia đình Nho học tại làng Liên Bạt, H.Ứng Hòa, Hà Nội ngày nay. Học rộng, hiểu sâu, mới 17 tuổi, Bùi Bằng Đoàn đã đỗ cử nhân khoa thi Hương “trường Nam thi lẫn với trường Hà”, năm Bính Ngọ (1906) triều vua Thành Thái. Khai tăng 3 tuổi để đủ tuổi học Trường Hậu Bổ, rồi lại đỗ thủ khoa, Bùi Bằng Đoàn được bổ làm Tri huyện tập sự H.Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Con đường hoạn lộ thênh thang, chẳng mấy lúc ông đã lên quan Án sát tỉnh Lạng Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Bố chính tỉnh Phúc Yên; Tuần phủ tỉnh Cao Bằng, tỉnh Ninh Bình.

Năm 1933, vua Bảo Đại về nước, 5 cụ thượng thư cũ “rớt cái ình”. Nổi tiếng là đức độ, thanh liêm, chính trực, thương dân, đang làm Tuần phủ Ninh Bình, Bùi Bằng Đoàn được triệu về kinh giữ chức Hình bộ Thượng thư.

Trước đó, Chính phủ Nam triều đã cử Bùi Bằng Đoàn vào Nam bộ thanh tra các đồn điền cao su của Pháp. Ông đã tiến hành thanh tra thấu đáo, viết báo cáo nêu những điều vô lý trong chính sách đối với phu đồn điền. Cuối cùng, ông đề nghị: “Tôi mạn phép đề nghị với ngài thống sứ, xin ngài tìm dịp đề nghị với ngài toàn quyền cho bổ sung thêm về việc bảo hộ nhân công”. Những kiến nghị xác đáng đã được chấp nhận, giảm thiểu những chế độ hà khắc đối với công nhân đồn điền cao su thời đó.

Vì lẽ phải của dân tộc

Nhờ vốn tiếng Pháp uyên thâm, năm 1925 khi đang làm Tri phủ Nghĩa Hưng (tỉnh Nam Định), ông Bùi Bằng Đoàn được mời lên Hà Nội làm thông ngôn cho phiên tòa đại hình xử vụ án Phan Bội Châu. Cương trực, bênh vực lẽ phải, Bùi Bằng Đoàn đã thông dịch rõ ràng, trung thực những lời nói, lý lẽ đanh thép của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Tòa án phải chuyển từ án chung thân giảm xuống “an trí ở Huế”.

Không những thế, khi làm Án sát tỉnh Bắc Ninh, chính ông chủ trì phiên tòa xét xử tù chính trị. Có một người tù ở phủ Từ Sơn khá đặc biệt là Nguyễn Văn Cừ, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương. Thực dân Pháp đã định án tử hình nhưng khi nghị án, ông giảm xuống chung thân lưu đày.

Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9.3.1945), vua Bảo Đại xuống chiếu thành lập chính phủ, ông cáo quan về quê, song chính phủ Nam triều giữ ông ở lại bằng cách trao chức Chánh nhất Tòa thượng thẩm Hà Nội lúc này đang khuyết. “Đêm trước” của cách mạng, Việt Minh đã tiếp xúc và mời ông làm Hội trưởng Hội Bảo vệ tù chính trị. Từ đây, Bùi Bằng Đoàn đến với cách mạng một cách tự nhiên, như phẩm chất thanh liêm và chính trực vốn có của ông.

Bùi Bằng Đoàn nhận được thư của Hồ Chủ tịch mời ra gánh vác việc nước. Lá thư ngày 17.11.1945 viết:

“Thưa Ngài! Tôi tài đức ít ỏi, mà trách nhiệm nặng nề. Thấy Ngài học vấn cao siêu, kinh nghiệm phong phú. Vậy nên, tôi mời Ngài làm Cố vấn cho tôi, để giúp thêm ý kiến trong công việc hưng lợi, trừ hại cho nước nhà dân tộc. Cảm ơn và chúc Ngài mạnh khỏe.
Kính thư, Hồ Chí Minh”.

Cảm động, ông rời quê, ra Hà Nội. Gần 60 tuổi, ông lại dấn thân vào con đường mới - đường cách mạng. Vừa nhận lời làm Cố vấn Chủ tịch nước chưa được tuần lễ, Bùi Bằng Đoàn lại được bổ nhiệm làm Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ (theo Sắc lệnh số 64, ngày 23.11.1945) với cộng sự là một thanh niên 26 tuổi, Cù Huy Cận, Bộ trưởng Bộ Canh nông. Hai tháng sau, ông trúng cử đại biểu Quốc hội khóa I tỉnh Hà Đông, từ tháng 11.1946, ông làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội gần trọn 10 năm cho đến khi tạ thế (13.4.1955).

Theo Kiều Mai Sơn - TN
 
 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 Octobre 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu

  • Với giọng văn sinh động, pha chút hài hước, hình minh họa ngộ nghĩnh, phù hợp với lứa tuổi học trò: “Chuyện kể về thầy trò thời xưa”, “Những tấm lòng cao cả” hay bộ văn học teen “Cười lên đi cô ơi”… sẽ đem đến cho độc giả nhiều cung bậc cảm xúc và hoài niệm.

  • Trong tất cả các Ni sư Phật giáo mà tôi được biết và chịu ơn hoằng pháp vô ngôn, có lẽ người gần gũi với tôi nhất trong đời là Cố Đại Trưởng lão Ni chúng – Sư Bà Cát Tường - nguyên trụ trì chùa sư nữ Hoàng Mai ở Thủy Xuân – Huế.

  • LTS: Nhà thơ, nhà văn Thanh Tịnh năm 78 tuổi sức khỏe không còn như buổi thanh niên, nhưng ngòi bút của ông vẫn còn cái sung sức của một người đã từng yêu du lịch và làm nghề hướng dẫn khách du lịch toàn Đông Dương. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc những trang hồi ký đầy lý thú của Thanh Tịnh.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Tôi không có dịp được học với thầy Phạm Kiêm Âu, người thầy nổi tiếng ở Huế, nhưng lại có cơ duyên cùng dạy ở trường nữ trung học Đồng Khánh với thầy trong các năm 1974 - 1975.

  • Vậy là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã về cõi thiên thu giữa một sáng mùa thu Hà Nội lay phay gió mù u!...Trước khi chưa kịp được vuốt mắt, dường như đôi đồng tử của ông vẫn còn lưu giữ lại hình ảnh đau đáu về con sông Cụt quê nhà.

  • Với một tướng lãnh võ biền, thì mục tiêu cuộc dẹp loạn là đánh tan loạn quân, rồi ca khúc khải hoàn, ăn mừng chiến thắng.

  • PHÙNG TẤN ĐÔNG

    Đời của nó như thể bềnh bồng
    Cái chết của nó như thể an nghỉ

                               F.Jullien
    (Dẫn nhập cuốn “Nuôi dưỡng đời mình - tách rời hạnh phúc” - Bửu Ý dịch, 2005)

  • THANH TÙNG

    Hiệp định Genève ký kết, sông Bến Hải tưởng chỉ là giới tuyến tạm thời, không ngờ đã trở thành ranh giới chia cắt đất nước Việt Nam hơn 20 năm. Nỗi đau chia cắt và biết bao câu chuyện thương tâm, cảm động đã diễn ra ở đôi bờ Hiền Lương kể từ ngày ấy. Nhiều cuộc tình đẫm máu và nước mắt. Có những đôi vợ chồng chỉ ở với nhau đúng một đêm. Có người chồng Bắc vợ Nam, khi vợ được ra Bắc thì chồng lại đã vào Nam chiến đấu, đời vợ chồng như chuyện vợ chồng Ngâu.

  • Thưởng thức là ngưỡng cửa của phê bình. Chưa bước qua ngưỡng cửa ấy mà nhảy vào cầm bút phê bình thì nhất định mắc phải những sai lầm tai hại. Không còn gì ngượng bằng đọc một bài người ta đem dẫn toàn những câu thơ dở và những câu ca dao dở mà lại đi khen là hay”. (Vũ Ngọc Phan, trích từ Hồi ký văn nghệ, tạp chí Văn Học, Hà Nội, số 4 năm 1983, trang 168).

  • VƯƠNG TRÍ NHÀN

    I
    Hè phố Hà Nội vốn khá hẹp, chỉ có điều may là ở cái thành phố đang còn lấy xe đạp làm phương tiện giao thông chủ yếu này, người đi bộ có phần ít, phía các phố không phải phố buôn bán, vỉa hè thường vắng, bởi vậy, nếu không quá bận, đi bộ lại là cái thú, người ta có thể vừa đi vừa nghỉ, thoải mái.

  • Gặp người thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm xưa, tôi có dịp biết thêm những tình tiết mới quanh câu chuyện hơn 30 năm về trước khi tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng được tái bản lần đầu.

  • THẾ TƯỜNG
                   

    "Quê hương là chùm khế ngọt
    cho con trèo hái cả ngày"

  • Một nhà báo Pháp sắp đến Việt Nam để tìm lại một di sản chiến tranh, nhưng ở một khía cạnh nhân văn của nó - đó là những con người, địa điểm từng xuất hiện trong các bức ảnh mà nữ phóng viên chiến trường nổi tiếng Catherine Leroy ghi lại trong cuộc tấn công Mậu Thân vào thành phố Huế. 

  • Thanh Minh là bút danh chính của Nguyễn Hưu(1), người làng Yên Tập, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, nay là xã Tân Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

  • LTS: Nhà văn Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, sinh năm Bính Ngọ 1906 ở Tuyên Quang, song lại có gốc gác dòng họ Nguyễn ở Huế. Ông nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ những năm 1930 - 1945, được mệnh danh là “nhà văn đường rừng”, để lại hàng trăm tác phẩm văn học, trong đó có gần 50 cuốn tiểu thuyết.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Tháng Bảy âm. Tháng cô hồn. Mồng một âm đã rả rích mưa báo hiệu cho một tháng âm u của Tiết Ngâu. Sắp rằm, tâm trí chợt như hửng ấm khi tiếp được cái giấy Hà Nội mời dự lễ khánh thành nhà bia và Khu tưởng niệm đồng bào ta bị chết đói năm 1945. Chợt nhớ, công việc này đã manh nha từ hơn mười năm trước…

  • LTS: Nguyễn Hưu, bút danh Thanh Minh, sinh năm 1914, quê huyện Can Lộc, hoạt động báo chí và văn học từ những năm 1934 - 1935. Ông là nhà báo, nhà thơ, dịch giả Hán - Nôm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà quản lý văn hóa văn nghệ có nhiều thành tựu và cống hiến. Ông là Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Tĩnh đầu tiên. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [21.8], VHNA sẽ lần lượt đăng một số bài viết về ông.

  • Vùng quê nghèo chúng tôi nằm sát chân núi Hồng Lĩnh có Hàm Anh (nay là xóm 1 xã Tân Lộc) từng sản sinh ra một Tiến sĩ xuất thân Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) (1499) đời Lê Hiến tông tên là Phan Đình Tá (1468-?)