Những bài thơ ra đời trên sông nước Kinh thành Huế của Trần Quý Cáp

08:57 02/03/2017

Mùa Xuân 1904
Trần Quý Cáp bước vào tuổi 34 và đỗ đầu Tiến sĩ khoa Giáp Thìn tại Huế. Ông ở Huế chưa đầy nửa năm, rồi về Quảng cho kịp ngày khai hội Duy Tân.

Ảnh: internet

Trong thời kỳ ngắn ngủi và đặc biệt này, ông đã yết kiến vua Thành Thái, kết giao với Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và một số trí thức tân học khác. Vĩnh Quyền, khi sưu tầm tư liệu để viết truyện dài lịch sử Mạch Nước Trong (NXB. Thanh Niên, Hà Nội, 1986) rất chú ý đến thời kỳ này. Anh cung cấp cho chúng tôi 19 bài thơ chữ Hán chưa hề được dịch của Trần Quý Cáp. Những bài này do Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác - một môn đệ của Trần Quý Cáp - sao lục và đăng trong phần Văn Uyển, tạp chí Nam Phong, số 74 và 76 năm 1924.

Dưới đây, chúng tôi dịch và giới thiệu 4 bài tiêu biểu Trần Quý Cáp viết trong thời kỳ ở Huế, trước ngày ông lao vào cơn bão Duy Tân, chống thuế rồi bị xử chém (17 tháng 5 Mậu Thân, 1908).

1. TAM GIANG TẢ PHIẾM

Tam giang giang thượng phiếm xuân tình,
Khai thác hà niên nộ lãng bình
Chu tiếp đ kim lâm Sở ngạn,
Phong vân hồi thủ vọng Tn kinh.
Viễn thôn liệt thụ chi như kích,
Lăng hiểu
cô ngư đỉnh há thành
Độc hữu xạ triều nhân bt kiến,
Trung lưu kích thủy phòng ca hành.

Dịch nghĩa: BUỔI SÁNG THẢ THUYỀN TRÊN TAM GIANG.

Mùa xuân tạnh ráo, thả thuyền trên sông Tam Giang (1)
(Vùng sông này) mở mang năm nào mà bây giờ đã hết sóng dữ?
Mái chèo giờ đây đến bờ nước Sở (2)
Gió mây ngoảnh lại trông ngóng kinh đô nước Tân (3).
Hàng cây bày ra ở xóm xa, cành như giáo mác;
Cá đem bán suốt buổi sáng, thuyền con về thành phố.
Chỉ có nước triều rút nhanh (như bắn súng) là người ta không thấy được,
Giữa dòng sông, (ta) chèo mạnh, cất bài ca, thuyền đi.

Dịch thơ:

Sông Tam Giang buông thuyền xuân tạnh
Đào năm nao, sóng giận đã yên?
Nhắm bờ nước Sở chèo Iên
Gió mây ngoảnh lại ngóng bên kinh Tần
Xóm xa cây tựa ngàn giáo mác
Thuyền cá về sáng mát thị thành
Nước triều ai biết xuống nhanh
Hò dô ta hát bài hành thuyền đi.


2. QUY CHU KỶ KIẾN

Bng bng miêu th giang chi my,
Tiu đỉnh tà xanh trúc ảnh thùy
Tiềm hữu vi ngư xuân thủy trướng,
Lâm thê túc điu vãn phong đi.
Tư khư (4) dã phụ hạ thôn khứ,
Tái mễ thương thuyn bàng ngạn xuy,
Cánh hữu đông đông hà xứ c,
Tà dương thôi khách xướng tân thi.

Dịch nghĩa:   LUI THUYỀN, GHI ĐIỀU MẮT THẤY

Lúa non, lúa nếp xanh mơn mởn bên bờ sông,
Thuyền nhỏ chèo lúc chiều trong bóng tre rủ xuống
Con cá chìm ẩn trong nước sông mùa Xuân đang lớn;
Con chim ngủ trong cây rừng, gió tối xao động.
Người thiếu phụ miền quê đi lể mể ở xóm dưới;
Chiếc thuyền buôn chở gạo, thổi cơm chiều bên bờ sông.
Lại có tiếng trống tùng tùng ở đâu vọng tới,
Bóng chiều (như) giục khách ngâm lên một bài thơ mới làm.

Dịch thơ:

Mượt mà lúa nếp bên sông
Chiều tà – thuyền nhỏ chèo trong bóng chiều
Cá chìm ngại nước xuân triều
Chim ngủ đỗ cây rừng chiều gió rung
Xóm quê thiếu phụ bước chùn
Thuyền buôn chở gạo bên sông nhóm lò
Tùng tùng vẳng tiếng trống xa
Thơ ngâm giục khách, chiều tà đuổi theo...


3. PHIẾM CHU TAM GIANG, ỨC HỮU, THƯ THỬ TÍNH KÝ (5)

Quân thị Yên ba cựu điếu đ, (6)
Xuân phong xuy duệ thướng Huyn đô (7)
Cuồng ca năng sử qun tiên đảo, (8)
Túy nhãn hồi khán nhất tọa vô.
Thường thức tm thường kiêm nữ sử (9)
Hung hoài thác lạc ký xư b. (10)
Đông Ba (11) tạc dạ đào thanh tráng,
Hận bất huề quân đáo Ngũ H. (12)

Dịch nghĩa:   THẢ THUYỀN Ở TAM GIANG, NHỚ BẠN, VIẾT BÀI NÀY GỬI BẠN.

Anh là một tay đi câu ngày trước trong cảnh khói sóng (anh là dật sĩ thanh cao),
Gió Xuân thổi bay tà áo đến Huyền đô.
Ca hát ngông cuồng có thể khiến các vị tiên nghiêng ngửa
Trong mắt say, quay nhìn lại, một tòa nhà cũng không còn!
Hiểu biết bình thường (của anh) gồm cả chuyện giới nữ lưu;
Lòng ôm chí lớn đã buông thả (thì) gởi cho cây xư, cây bồ.
Đêm hôm qua ở bến sông Đông Ba, tiếng sóng rộ lên,
(Tôi) giận (mình) sao không dìu anh đến Ngũ Hồ.

Dịch thơ:

Khói sóng ngày xưa anh thả câu,
Gió xuân bay áo... cõi Mơ nào?
Ngông cuồng hát tới, bầy tiên đổ,
Say khướt nhìn lui, chẳng thấy lầu!
Hiểu thấu chuyện thường: thêm các chị
Tung hê chí lớn: gởi ngàn lau!
Đông Ba đêm trước ầm ào sóng
Lòng giận... Ngũ Hồ chẳng đón nhau...


4. TAM GIANG LIÊN CÚ (13)

Hà sơn thiên him c Ô châu,
Kỳ tạo Mân khai (14) duyệt Kỷ thâu (thu)
Vạn lãnh chu tao hoàn phượng khuyết,
Nhất giang khuất khúc bảo ngư hu (15)
Xuân phong cô tửu kiu biên đỉnh,
Thang dạ trù binh trúc hạ lâu.
Kiều thủ Bình Sơn đa vượng khí

Miếu đưng (16) kinh hoạch hữu gia du.

Dịch nghĩa:

LUI THUYỀN TRÊN PHÁ TAM GIANG (Thơ Liên cú)

Đất châu Ô xưa, sông núi và trời hiểm trở.
Đất Kỳ, đất Mân (ở Trung Quốc) gầy dựng và mở mang đã trải bao năm?
Muôn ngọn núi vây quanh kinh đô;
Một giòng sông uốn khúc như ôm lấy miệng cá.
Trong gió xuân, bên chân cầu, có chiếc thuyền nhỏ bán rượu,
Vào đêm vắng, (có người) bàn việc binh cơ trong mái lầu có bóng tre rủ xuống.
Ngửng nhìn núi Ngự Bình có nhiều vượng khí,
(Có lẽ) nơi miếu đường (nhà vua) cũng đã trù hoạch những mưu kế hay!

Dịch thơ:

Hiểm thay đất cũ châu Ô
Mở mang thuở ấy đến giờ bao năm?
Núi muôn đợt - cửa vua nằm
Sông một khúc - miệng cá giăng ôm trùm
Bên cầu, thuyền rượu, gió xuân
Trên lầu tre rủ, việc quân đang bàn
Nhìn lên núi Ngự mênh mang,
Tốt sao khí thịnh, miếu đường mưu sâu!


Ngô Thời Đôn
dịch và chú thích
(TCSH41/02&03-1990)


---------------
(1) Tam Giang: Phá Tam Giang ở Huế.
(2),(3) Bờ Sở Kinh Tần: Sở và Tần là hai nước thời Xuân Thu Chiến Quốc đang lâm chiến. Có lẽ tác giả viết vậy để ám chỉ thời cuộc. “Gió mây” chỉ sự lập công danh, phải chăng tác giả kín đáo nói về tâm sự mình (như Kinh Kha vào đất Tần)?
(4) Tư khư: dáng đi lể mể, nặng nhọc.
(5) Lúc Phan Chu Trinh ở Huế (1902 - 1904) Trần Quý Cáp tặng Phan bài này.
(6) Trương Chí Hòa ẩn sĩ đời Đường, tự xưng là “Yên ba điếu đồ” (Phường câu trong khói sóng). Lúc ở quê nhà, Phan Chu Trinh nổi tiếng đi câu.
(7) Huyền đô: “đô thành huyền hoặc”, chỉ cõi tiên.
(8) Phan Chu Trinh có tài hát xướng, ngâm ngợi.
(9) Trần Quý Cáp nhắc chuyện Phan Chu Trinh quen một nữ sĩ đàn giỏi, thơ hay ở Huế.
(10) Loài cây vô dụng. Ý nói muốn sống như người thô vụng.
(11) Sông đào Đông Ba hoặc đoạn sông Hương chảy ngang trước chợ Đông Ba (Huế).
(12) Năm cái hồ lớn ở Trung Quốc, chỉ thắng cảnh nói chung.
(13) Liên cú là lối thơ mỗi người làm một câu cho đến hết bài. Có lẽ đây là sáng tác tập thể của Trần Quý Cáp, Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… khi gặp nhau ở Huế? vào mùa xuân 1904.
(14) Kỳ, Mân: tên của 2 trong 3 vùng đất (Mân, Kỳ, Phong) do ông khai sáng và đưa giáo hóa của Văn chương nhà Chu (Trung Quốc) lập nên. Từ hai vùng này, Văn Vương mở thêm đất Cảo và các vùng khác. Phải chăng, các tác giả muốn nói đến sự quan trọng của vùng đất đầu tiên, bàn đạp về phía Nam của Tổ quốc ta?
(15) Ngư hầu: Họng cá. Có thể hiểu hai cách: a/ Địa thế tự nhiên của kinh thành Huế; núi bao bọc vòng ngoài, sông Hương bọc vòng trong; kinh thành lọt thỏm vào trong, tựa như nằm trong miệng cá(?) b/ Dòng sông Hương chảy bao lấy Mang Cá, một góc hiểm yếu của phòng thành Huế.
(16) Miếu đường: Chỗ vua và các quan làm việc; đây chỉ Thành Thái, một vị vua có tư tưởng yêu nước.





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • JEAN CLAUDE VÀ COLETTE BERNAY (Chủ tịch Hiệp Hội "Nghệ thuật mới Việt Nam", thành viên của Nhóm công tác Huế - Unesco, phụ trách dự án Duyệt Thị Đường từ năm 1993)

  • NGUYỄN QUANG HÀ                            Bút kýMột nhà triết học đã nói: "MỌI NGƯỜI ĐỀU ĐI BẰNG ĐÔI CHÂN CỦA MÌNH". Lúc ăn chưa no, lo chưa tới, đọc câu này, tôi cười: "Dễ ợt thế, có gì mà nói". Lớn lên mới thấy được câu ấy thật chí lý, thật ghê gớm. Hầu như tất cả những ai mượn đôi chân của người khác đi đều sứt đầu, bươu trán cả. Tuy không nói ra, song những tiền đề, định hướng cho mọi hành động đều có xuất phát điểm từ nội dung câu nói ấy.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHTrong hơn 300 năm từ 1636 đến 1945, với tư cách là Trung tâm chính trị và văn hóa của Đàng Trong và là kinh đô của đất nước thống nhất, Huế trải nhiều thăng trầm nhưng vẫn giữ được những thuần phong mỹ tục và các thành tựu của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, hội tụ được nhiều kỳ tích về nhiều phương diện. Huế bình tĩnh, chắc chắn đi lên và đang hiện đại hóa. Cố đô cổ kính hài hòa trong thành phố mới sôi động, xứng đáng với phần thưởng cao quý mà UNESCO trao tặng trong tháng 8. 1994 "Huế di sản văn hóa của thế giới".

  • XUÂN HUY        "Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại        Cầu Trường Tiền đúc lại xi - moong"

  • TÔN THẤT BÌNHThừa Thiên Huế vốn là vùng đất miền Trung nổi tiếng về hò. Ngày trước, hò khá phổ biến trên mọi miền đất nước, nhưng đặc biệt ở miền Trung, hò là một đóng góp quan trọng về thể loại dân ca Việt Nam.

  • LTS: Nhạc sĩ Trần Hoàn là người từng công tác nhiều năm, và có nhiều gắn bó với TTH. Nhân dịp ông vào Huế công tác, phóng viên Nguyễn Việt có cuộc trò chuyện với ông xung quanh những vấn đề về Huế và âm nhạc. Xin giới thiệu với bạn đọc nội dung cuộc trò chuyện này.

  • HỒ VĨNHTừ đường Qui Đức công chúa tọa lạc bên cạnh đường đi lăng Tự Đức thuộc thôn Thượng 2, xã Thủy Xuân, thành phố Huế. Đây là một ngôi từ đường cổ có tuổi thọ trên 100 năm. Bình đồ từ đường có kiến trúc gần vuông, nội thất có 1 gian 2 mái gồm 20 cột gỗ lim, kiền. Ở gian chính giữa treo bức hoành khắc nổi sáu chữ Hán "Qui Đức công chúa từ đường".

  • NGUYỄN KHẮC PHÊLâu nay, nhắc đến vùng biển gắn liền với Huế, người ta chỉ biết có Thuận An " bãi tắm Thuận An", " Cảng Thuận An", " nhà nghỉ Thuận An"... còn eo Hòa Duân, nghe như là một địa danh mới nổi tiếng sau cơn lũ lịch sử đầu tháng 11 này.

  • THANH TÙNGSáng 4/11/99, khi còn kẹt ở Đà Nẵng, nối được liên lạc với với Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế Nguyễn Văn Mễ qua Mobi Fone tôi mới biết mức nước ở Huế đã vượt đỉnh lũ lịch sử từ 1 - 1,2 mét.

  • QUÍ HOÀNGLăng tẩm trừ lăng Khải Định, Hổ Quyền, trong Hoàng Thành trừ Thái Bình Lâu, Lẩu Ngọ Môn ở vị thế cao nên thoát khỏi nước. Còn tất cả 14 khu di tích khác với hàng trăm công trình kiến trúc đều bị ngập trong biển nước. Chỗ cao nhất trong nội thành cũng ngập 1 mét 50 nước, chỗ ngập sâu nhất của lăng Minh Mạng là trên 5 mét. Nhà bia ở đây nước ngập dần tới mái.

  • ĐOÀN MINH TUẤNViệt Nam - mảnh đất dài như một chiếc đàn bầu đã là quê hương sản sinh ra chiếc áo dài phụ nữ duyên dáng. Dải đất hình chữ S thắt lưng eo ở Huế, cũng như chiếc áo dài "thắt đáy lưng ong" dịu dàng, e ấp, kín đáo và lộ rõ đường nét:        Rõ ràng trong ngọc trắng ngà        Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên                                                        (Nguyễn Du)

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNTừ sau ngày các chúa Nguyễn thiên di thủ phủ xứ Đảng Trong đến Kim Long (1636) và Phú Xuân (1687), do yêu cầu tiêu dùng của phủ Chúa và quan binh, đã hình thành ở Phố Lữ Bao Vinh một khu phố thị. Đến nửa thế kỷ XIX khu phố thị nầy lan dần lên phía chợ Dinh Gia Hội và tồn tại cho đến ngày nay. Kinh thành Huế được UNESCO công nhận là Thành cổ thì khu Gia Hội Chợ Dinh chính là khu phố cổ của Huế.

  • VÕ HƯƠNG AN (*)Ngày trước tôi chưa thấy nơi nào nhiều am, miếu, điện, đền như ở Huế. Và cũng chưa thấy nơi nào mà việc lên đồng lại phổ biến và quen thuộc như ở Huế. Nội dọc con đường chạy từ xóm Cầu Đất tới cống Vĩnh Lợi đã có khá nhiều điểm lên đồng, nào am ông Cửu Cường, am bà Thầy Bụi, Phước Điền Điện của ông Giám Hưu, am ông Chấn.v.v nói chi đến những nơi khác nữa.

  • NGUYỄN VĂN MẠNHLàng Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ XV, gần với quá trình mở mang bờ cõi về phương Nam của nhà nước phong kiến Đại Việt. Trong gia phả của họ Hoàng - dòng họ khai canh ở Phước Tích có đoạn chép: "Đến đời Lê Thánh Tôn, niên hiệu Hồng Đức thứ nhất và hai (1470 - 1471), ngài thủy tổ họ Hoàng lúc bấy giờ là Hoàng Minh Hùng, tục gọi là Nồi, nguyên người làng Cẩm Quyết, tỉnh Nghệ An, đã thân chinh đánh đuổi quân Chiêm Thành, sau chiến thắng trở về ngài đi xem xét đến nguồn Ô Lâu, bao chiến địa phận từ Khe Trăn, Khe Trái đến xứ Cồn Dương, sau khi xem bói, đoán biết được chỗ đất tươi tốt, ngài liền chiêu tập nhân dân thành lập làng" (1).

  • NGUYỄN QUANG SÁNG                                 Ký Mỗi lần ra Huế về tôi cứ áy náy là chưa đến viếng Nhà thờ tổ nghề Kim Hoàn, vì cha tôi và anh em tôi đều là thợ kim hoàn. Nghề kim hoàn của cha tôi đã nuôi các anh chị em tôi. Cũng với nghề kim hoàn gia đình tôi đã trải qua biết bao thăng trầm. Mãi đến ngày 05/8/2004 này nhờ sự giúp đỡ của Tạp chí Sông Hương (Nguyễn Khắc Thạch, Vũ Bích Đào, Diệu Trang) tôi đã đến Nhà thờ thuộc làng Kế Môn, huyện Phong Điền.

  • TRẦN THỊ THANH…Núi Thuý Vân và chùa Thánh Duyên vì trước kia được xem là một trong những thắng cảnh của đất Thần Kinh nên các Chúa và các vua Nguyễn thường về đây thưởng ngoạn và làm thơ phú ca ngợi. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả vẫn là những bài thơ được khắc trong hai tấm bia - một dựng trong chùa, một dựng dưới chân núi…

  • HỒ VĨNHĐồi Vọng Cảnh nằm cách thành phố Huế 7km về phía tây nam, vùng sơn phận này gồm nhiều núi đồi gối đầu lên nhau trong một khu vực rộng khoảng 2.400 ha diện tích đất tự nhiên. Về mặt địa hình của ngọn đồi, từ vị trí của tấm bia cổ Lý Khiêm Sơn (núi gối hậu của Khiêm Lăng - Tự Đức) kéo dài lên Vọng Cảnh là một dãy liên hoàn.

  • NGUYỄN QUANG HÀChùa Huyền Không Sơn Thượng tan trong non xanh và lá xanh. Dẫu đang còn tranh tre mộc mạc, nhưng thanh thoát, duyên dáng và thảnh thơi như lòng người ở đây. Đúng như nhà sư Minh Đức Triều Tâm Ảnh tâm sự: “Cảnh là tơ duyên của đời”. Đến Huyền Không Sơn Thượng cảm giác đầu tiên của tất cả du khách là thấy lòng mình ấm lại.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!