Nhớ lại một thời...

10:35 30/05/2011
Mới đó mà đã gần ba mươi năm trôi qua, kể từ khi những văn nghệ sỹ trẻ xứ Huế cùng hội ngộ với nhau trong Câu lạc bộ Văn học Trẻ Huế những năm tám mươi thế kỷ hai mươi.

Nhà thơ Phùng Tấn Đông

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Mới đó mà đã có đến ba thế hệ viết trẻ khởi đi từ Huế, góp phần làm nên vóc dáng văn học vùng Huế và miền Trung hùng hậu. Trong số đó, đến bây giờ nhiều người đã mệt nhoài buông bút, nhiều tác giả vẫn đang miệt mài cày xới trên cánh đồng văn, nhưng ngọn lửa ngày ấy thì vẫn đang cháy trong tim, như ánh lửa chờ thắp lại lúc nối tay ngày về.

Ngọn lửa ấy đã thao thiết cháy cùng Tạp chí Sông Hương bao tháng năm qua. Nó cần được nhắc lại, nó cần được thắp lại ngọn nến để những yêu dấu tìm về. Và vì lẽ đó, chuyên đề dành cho Viết trẻ Huế được giới thiệu đến bạn đọc trong số báo này.

Dĩ nhiên, cuộc chơi còn nhắc đến bạn bè đã đến và đi, chỉ là ngẩu nhiên bởi sự có mặt của bản thảo, không hề chọn lựa: Lê Vĩnh Tài qua ánh nhìn Khánh Phưong, Vi Thùy Linh qua Trần Thiện Khanh, Tuệ Nguyên qua Lê Minh Phong.
Xin giới thiệu cùng bạn đọc!
SÔNG HƯƠNG



PHÙNG TẤN ĐÔNG


Nhớ lại một thời...


“Như có thể chết đi, bỗng nhiên; nhưng không bao giờ ngờ vực
điều chúng ta tồn tại với thơ ca”
(Phạm Tấn Hầu - Thơ để ngỏ)


Cũng đã gần 30 năm... Những tháng năm, những khuôn mặt cứ lùi xa trong trí tưởng. Anh em bạn bè ngày ấy có người thi thoảng về Huế gặp nhau, có người trôi dạt mãi đẩu đâu góc bể chân trời, có người đã không còn trên cõi thế. Tưởng có thể quên đi nhưng chỉ cần một nhắc nhớ, cánh cửa ký ức mở tung, hiển hiện về bao nhiêu là khuôn mặt, bao nhiêu là cảm xúc, nghĩ ngợi, cơ man bao chuyện vui buồn.

Trong lời giới thiệu cho tập thơ “Thơ trẻ Huế” của 15 tác giả do Thành đoàn Huế xuất bản tháng 9 năm 1984, anh Nguyễn Khoa Điềm viết: “Tại ngôi nhà 22 Trương Định, cạnh cầu Trường Tiền, có một nhóm anh chị em làm thơ trẻ thường tới lui sinh hoạt. Ngôi nhà này ngày trước là trụ sở Tổng hội sinh viên Huế, nơi phát xuất các cuộc đấu tranh của tuổi trẻ học đường dưới thời Mỹ - tay sai, nay là cơ sở hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng sản thành phố...” và “...chúng ta cũng đang phấn đấu hình thành thế hệ thứ tư những người cầm bút...”.

Những năm ấy, tôi rời bộ đội về học Đại học Sư phạm. Các thầy cô ở khoa Ngữ văn sau cuộc thi văn học của khoa đã trao giải và gửi đăng các tác phẩm của tôi trên tạp chí Sông Hương - cả thơ và truyện ngắn nên được mời đến sinh hoạt tại câu lạc bộ văn học Thành đoàn và “nghiễm nhiên” nằm trong “thế hệ thứ tư” ấy của Huế. Tôi còn nhớ, những bạn bè là sinh viên, công chức lúc ấy ai nấy đều háo hức trong việc sáng tác, sáng tạo là phải mới, phải làm mới văn chương. Mà đâu chỉ anh em, những cán bộ Đoàn và anh em “phong trào” sinh viên học sinh trước 1975 cũng háo hức không kém. Bên Đoàn có Lê Phùng, chị Thọ, chị Đấu, chị Dung, anh Diệu, Khắc Công, Trần Văn Tiến..., anh em “phong trào” có Phạm Tấn Hầu, Thái Ngọc San, Võ Quê, Văn Hữu Tứ... Khoa Văn Sư phạm có thầy Trần Thức, Hoàng Dũng, cô Trần Thùy Mai... Khoa Văn Tổng hợp có Phạm Phú Phong... Thành viên của câu lạc bộ rất “hùng hậu” như trường Tổng hợp có Lê Viết Tường, Hồ Thế Hà, Trần Thị Huyền Trang, Phạm Đương, Trần Bá Đại Dương, Trần Thị Kim Oanh... Sư phạm có Trần Hoàng Phố (thầy Bửu Nam), Phùng Tấn Đông, Mai Nguyên, Thu Hồng, Võ Văn Luyến, Lê Công Doanh, Bạch Lê Quang... Các tác giả là viên chức, công chức, ngành nghề tự do có Trần Thị Hiền, Đỗ Văn Khoái..., sau này có Nguyễn Quang Lập từ bộ đội về làm ở Sở Văn hoá Bình Trị Thiên tham gia sinh hoạt.

Những năm tháng ấy có thể nói, gạt hết những góc tối trong mỗi đời riêng - cái mà người đời gọi là thân phận - thì đó là những ngày đầy ắp khát vọng, những ngày “sống trong hạnh phúc” bởi tất cả các thành viên cùng hướng đến một mục đích là viết những tác phẩm hay, có ích, viết và làm mới văn chương, những tác phẩm không lặp lại, không bước giẫm lên dấu vết của những người đi trước. Tôi còn nhớ trong lời giới thiệu trên Sông Hương số 15, tháng 9 và 10 năm 1985, Tòa soạn viết: “Thế nào là tác giả trẻ, cây bút trẻ, nghệ sĩ trẻ? Một cách gọi như vậy không phải không gây ra những tranh cãi ngay ở nước ta và nhiều nước trên thế giới. Bởi vì trong sáng tạo văn nghệ, tuổi không phải là vấn đề tiên quyết. Tuy nhiên trong thực tế nghề nghiệp - nếu coi hoạt động văn nghệ như một nghề nghiệp - thì vẫn có một lớp người “học nghề” để “thành nghề” và tiếp tục sự nghiệp của người đi trước. Chúng tôi đề nghị hãy gọi đội ngũ đó là những người kế tục sự nghiệp văn nghệ... Họ thuộc về tương lai của nền văn nghệ chúng ta”.

Thực sự với chúng tôi, những sinh viên còn ngồi trên ghế giảng đường thì việc “học nghề” viết là lẽ đương nhiên bởi dẫu sao nghề thầy giáo dạy văn đã gắn với nghiệp văn chương, thế nhưng có một môi trường để trao đổi, học hỏi lẫn nhau bằng các sáng tác mới và mạnh dạn trao đổi, phẩm bình với tư cách anh em bè bạn theo kiểu “nếu không phải là bạn tôi thì còn ai dám nói sự thật về tôi với tôi” của một triết gia nào đó tôi quên tên thì hẳn nhiên là quá lý tưởng... Làm sao không nhớ những đêm thơ ở Đại học Sư phạm, Đại học Tổng hợp, ở Trụ sở Hội Văn nghệ, ở 22 Trương Định... Những giọng thơ hào sảng, đầy tính chất “quảng trường” kiểu Mayakovsky, những ca khúc phổ thơ thời phong trào của Trần Quang Long qua giọng hát của anh Lượng, thơ Võ Quê qua giọng hát của Lê Phùng... Một Lê Viết Tường tràn đầy nhiệt huyết với bài thơ “Khúc hát đường chân trời”, một Trần Thị Huyền Trang nữ tính và triết lý với “Logíc của rubic”, một Trần Bá Đại Dương đầy ắp cảm xúc của lý tính với “Ghi nhận ở cầu Trường Tiền”... Làm sao không nhớ những buổi giới thiệu tác phẩm mới, hội thảo về thơ, truyện ngắn như thầy Bửu Ý giới thiệu thơ J. Prèvert, giới thiệu truyện ngắn phương Tây hiện đại - số đặc biệt của tờ Le Monde số 6.1984, hội thảo về thơ “Trần Vàng Sao - người đàn ông 43 tuổi...”, hội thảo về nhạc vàng (Nguyễn Quang Lập đứng lên làm ca sĩ hát minh hoạ nhạc viết theo đơn đặt hàng về kế hoạch hóa gia đình), mời nhà văn Nguyễn Minh Châu nói chuyện về sáng tác... Những năm tháng ấy, câu lạc bộ văn học Thành đoàn được sự hỗ trợ rất lớn từ các anh chị ở Hội Văn nghệ mà “chủ trì” là anh Nguyễn Khoa Điềm, anh Tô Nhuận Vỹ, anh Hoàng Phủ Ngọc Tường... Trong các sinh hoạt văn học, những cây bút trẻ mạnh dạn thể hiện chính kiến của mình về mọi vấn đề. Có nhiều lần các diễn giả phải nổi cáu như lần anh em hỏi anh Hoàng Phủ Ngọc Tường một cách ráo riết rằng có phải anh chọn việc ngợi ca cỏ hoa, thiên nhiên xứ Huế để tránh vấn đề “chống tiêu cực” vốn là thế mạnh của thể ký? Anh Tường đỏ mặt tía tai “Tui bênh vực cái Đẹp, tôn vinh hoa cỏ cũng là một cách “chống tiêu cực” của riêng tui, vấn đề không thể cãi với các anh được”. Bầu không khí thật sự dân chủ những năm đầu đổi mới đã giúp chúng tôi học hỏi lẫn nhau, học hỏi thế hệ đi trước để tự nâng tác phẩm mình lên, để việc đứng trong hàng ngũ những kẻ viết không phải là việc “đứng cho đẹp đội hình” hoặc giả chuyện văn chương chỉ là chuyện chơi, bằng lòng với việc ngồi “tâng bốc lẫn nhau” một tấc đến trời... Tôi nghĩ không có tuổi trẻ nào mà không khát vọng làm mới văn chương nghệ thuật thế nhưng những năm tháng ấy chúng tôi như hợp thời cuộc, gặp “nhân duyên” - những người trẻ đầy ắp khát vọng gặp một thế hệ đàn anh tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng “lắng nghe và thấu hiểu”, sẵn sàng chịu trách nhiệm khi đăng tải và “phát tán” những tác phẩm của chúng tôi ra cộng đồng, cộng với môi trường xã hội lúc ấy, nô nức trước trào lưu “đổi mới”... Những năm ấy, nhiều khi khát vọng của chúng tôi khiến nhiều người ngộ nhận là cắt đứt truyền thống, phủ nhận những người đi trước, kỳ thực - cũng như một thế hệ trước đó, tạm gọi là thế hệ “phong trào”, chúng tôi mong muốn đổi thay. Văn chương nghệ thuật mà không có gì gọi là mới thì còn gì là văn chương nghệ thuật. Một người bạn, giờ đã trôi dạt về phương Nam, mù tăm tin tức là Thiệp Đáng - người có những câu thơ hết sức ấn tượng như “những con bò mang guốc đi về phía cỏ non...”, “lá mọc trên đầu tôi hồi nửa đêm nguyên tiêu - từ đó tôi hoá nên một thực thể xanh biếc” (Bài “Lá” SH số 2 (41) - tháng 2,3/1900)... Rất nhiều năm sau, thời hậu câu lạc bộ văn học Thành đoàn vẫn viết với một cách thức mới mẻ như thế bằng sự xác tín mạnh mẽ về việc viết của mình... Mấy năm sau ngày Lê Viết Tường mất ở Bến Me, tôi về Đăk Lăk, ghé Sở Văn hoá, nơi Tường công tác, anh em chỉ về phía một góc cơ quan, còn lại mấy cái xoong nhôm sứt mẻ của vợ chồng Tường, một đống báo cũ nghe nói của vợ chồng thi sĩ dùng để dán bao bì đem bỏ chợ cho các bà nội trợ gói hàng... Xốn xang trong tôi một khúc hát về đường chân trời của tin yêu và khát vọng... Tôi về Nha Trang sau gần 25 năm hỏi thăm Trần Thị Kim Oanh thì mới biết Oanh có thâm niên mười mấy năm trong viện tâm thần “giờ có nhận ra được ông đâu, đến tên mình cô ấy còn không nhớ”.

Làm sao không nhớ những sáng Tịnh Tâm, những chiều Thiên Mụ, những đêm Lữ quán, nhà 22... Một chuyện riêng - tôi được anh chị em Thành đoàn tín nhiệm (có lẽ do đói kém nhất bọn) được mời dạy lớp Sao Khuê - lớp sáng tác văn học thiếu nhi của Nhà Thiếu nhi Huế sau anh Võ Quê, cô Ẩn. Chẳng biết các em tôi dạy, văn chương giờ tới đâu nhưng tôi tin các em sẽ lớn lên bằng những khát vọng làm đẹp cuộc sống này. Câu lạc bộ Văn học Thành đoàn sau lứa chúng tôi còn hoạt động một thời gian nữa, và có lẽ chính môi trường Huế có một lớp viết trẻ, sau này đứng được trong lòng bạn đọc dù viết báo hay viết văn như Phạm Xuân Hùng (Từ Dạ Thảo), Trần Tuấn, Lê Đức Dục, Minh Tự, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Ngô Thiên Thu, Lê Trung Việt, Phạm Nguyên Tường...

Lứa chúng tôi ngày ấy hẳn ai nấy đều sợ viết hồi ký bởi viết hồi ký là chấp nhận mình đã già. Mãi nhiều năm về sau và hiện tại chúng tôi vẫn thấy mình đương rất trẻ, ít nhất là trong những suy nghĩ về việc làm mới văn chương. Nhớ về những năm tháng ấy, tôi còn nhớ một đoạn thơ trong bài Mai có hòa bình của thi sĩ Ngô Kha được phổ nhạc, anh Lượng hát những lần gặp mặt anh em:

“...Tin em trao về hồng như nụ chín
Mai có hoà bình khác thể yêu đương
Đường dù ngại đi rừng chen lớp lớp
Nhớ nhau thì về cho kịp trời thu

Trời có tơ đan nắng hanh vườn cũ
Áo thô bạc màu hẹn buổi vinh quy
Chim vỗ cánh bay theo đàn tình tự
Xứ mẹ con về góp hội trùng tu”

Với tôi, nhiều khi khát vọng sáng tạo như cánh chim phượng hoàng huyền thoại vẫn đập cồn cào trong tàn tro để mong được tái sinh.

P.T.Đ
(267/5-11)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.