Nhớ lại một thời...

10:35 30/05/2011
Mới đó mà đã gần ba mươi năm trôi qua, kể từ khi những văn nghệ sỹ trẻ xứ Huế cùng hội ngộ với nhau trong Câu lạc bộ Văn học Trẻ Huế những năm tám mươi thế kỷ hai mươi.

Nhà thơ Phùng Tấn Đông

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Mới đó mà đã có đến ba thế hệ viết trẻ khởi đi từ Huế, góp phần làm nên vóc dáng văn học vùng Huế và miền Trung hùng hậu. Trong số đó, đến bây giờ nhiều người đã mệt nhoài buông bút, nhiều tác giả vẫn đang miệt mài cày xới trên cánh đồng văn, nhưng ngọn lửa ngày ấy thì vẫn đang cháy trong tim, như ánh lửa chờ thắp lại lúc nối tay ngày về.

Ngọn lửa ấy đã thao thiết cháy cùng Tạp chí Sông Hương bao tháng năm qua. Nó cần được nhắc lại, nó cần được thắp lại ngọn nến để những yêu dấu tìm về. Và vì lẽ đó, chuyên đề dành cho Viết trẻ Huế được giới thiệu đến bạn đọc trong số báo này.

Dĩ nhiên, cuộc chơi còn nhắc đến bạn bè đã đến và đi, chỉ là ngẩu nhiên bởi sự có mặt của bản thảo, không hề chọn lựa: Lê Vĩnh Tài qua ánh nhìn Khánh Phưong, Vi Thùy Linh qua Trần Thiện Khanh, Tuệ Nguyên qua Lê Minh Phong.
Xin giới thiệu cùng bạn đọc!
SÔNG HƯƠNG



PHÙNG TẤN ĐÔNG


Nhớ lại một thời...


“Như có thể chết đi, bỗng nhiên; nhưng không bao giờ ngờ vực
điều chúng ta tồn tại với thơ ca”
(Phạm Tấn Hầu - Thơ để ngỏ)


Cũng đã gần 30 năm... Những tháng năm, những khuôn mặt cứ lùi xa trong trí tưởng. Anh em bạn bè ngày ấy có người thi thoảng về Huế gặp nhau, có người trôi dạt mãi đẩu đâu góc bể chân trời, có người đã không còn trên cõi thế. Tưởng có thể quên đi nhưng chỉ cần một nhắc nhớ, cánh cửa ký ức mở tung, hiển hiện về bao nhiêu là khuôn mặt, bao nhiêu là cảm xúc, nghĩ ngợi, cơ man bao chuyện vui buồn.

Trong lời giới thiệu cho tập thơ “Thơ trẻ Huế” của 15 tác giả do Thành đoàn Huế xuất bản tháng 9 năm 1984, anh Nguyễn Khoa Điềm viết: “Tại ngôi nhà 22 Trương Định, cạnh cầu Trường Tiền, có một nhóm anh chị em làm thơ trẻ thường tới lui sinh hoạt. Ngôi nhà này ngày trước là trụ sở Tổng hội sinh viên Huế, nơi phát xuất các cuộc đấu tranh của tuổi trẻ học đường dưới thời Mỹ - tay sai, nay là cơ sở hoạt động của Đoàn thanh niên Cộng sản thành phố...” và “...chúng ta cũng đang phấn đấu hình thành thế hệ thứ tư những người cầm bút...”.

Những năm ấy, tôi rời bộ đội về học Đại học Sư phạm. Các thầy cô ở khoa Ngữ văn sau cuộc thi văn học của khoa đã trao giải và gửi đăng các tác phẩm của tôi trên tạp chí Sông Hương - cả thơ và truyện ngắn nên được mời đến sinh hoạt tại câu lạc bộ văn học Thành đoàn và “nghiễm nhiên” nằm trong “thế hệ thứ tư” ấy của Huế. Tôi còn nhớ, những bạn bè là sinh viên, công chức lúc ấy ai nấy đều háo hức trong việc sáng tác, sáng tạo là phải mới, phải làm mới văn chương. Mà đâu chỉ anh em, những cán bộ Đoàn và anh em “phong trào” sinh viên học sinh trước 1975 cũng háo hức không kém. Bên Đoàn có Lê Phùng, chị Thọ, chị Đấu, chị Dung, anh Diệu, Khắc Công, Trần Văn Tiến..., anh em “phong trào” có Phạm Tấn Hầu, Thái Ngọc San, Võ Quê, Văn Hữu Tứ... Khoa Văn Sư phạm có thầy Trần Thức, Hoàng Dũng, cô Trần Thùy Mai... Khoa Văn Tổng hợp có Phạm Phú Phong... Thành viên của câu lạc bộ rất “hùng hậu” như trường Tổng hợp có Lê Viết Tường, Hồ Thế Hà, Trần Thị Huyền Trang, Phạm Đương, Trần Bá Đại Dương, Trần Thị Kim Oanh... Sư phạm có Trần Hoàng Phố (thầy Bửu Nam), Phùng Tấn Đông, Mai Nguyên, Thu Hồng, Võ Văn Luyến, Lê Công Doanh, Bạch Lê Quang... Các tác giả là viên chức, công chức, ngành nghề tự do có Trần Thị Hiền, Đỗ Văn Khoái..., sau này có Nguyễn Quang Lập từ bộ đội về làm ở Sở Văn hoá Bình Trị Thiên tham gia sinh hoạt.

Những năm tháng ấy có thể nói, gạt hết những góc tối trong mỗi đời riêng - cái mà người đời gọi là thân phận - thì đó là những ngày đầy ắp khát vọng, những ngày “sống trong hạnh phúc” bởi tất cả các thành viên cùng hướng đến một mục đích là viết những tác phẩm hay, có ích, viết và làm mới văn chương, những tác phẩm không lặp lại, không bước giẫm lên dấu vết của những người đi trước. Tôi còn nhớ trong lời giới thiệu trên Sông Hương số 15, tháng 9 và 10 năm 1985, Tòa soạn viết: “Thế nào là tác giả trẻ, cây bút trẻ, nghệ sĩ trẻ? Một cách gọi như vậy không phải không gây ra những tranh cãi ngay ở nước ta và nhiều nước trên thế giới. Bởi vì trong sáng tạo văn nghệ, tuổi không phải là vấn đề tiên quyết. Tuy nhiên trong thực tế nghề nghiệp - nếu coi hoạt động văn nghệ như một nghề nghiệp - thì vẫn có một lớp người “học nghề” để “thành nghề” và tiếp tục sự nghiệp của người đi trước. Chúng tôi đề nghị hãy gọi đội ngũ đó là những người kế tục sự nghiệp văn nghệ... Họ thuộc về tương lai của nền văn nghệ chúng ta”.

Thực sự với chúng tôi, những sinh viên còn ngồi trên ghế giảng đường thì việc “học nghề” viết là lẽ đương nhiên bởi dẫu sao nghề thầy giáo dạy văn đã gắn với nghiệp văn chương, thế nhưng có một môi trường để trao đổi, học hỏi lẫn nhau bằng các sáng tác mới và mạnh dạn trao đổi, phẩm bình với tư cách anh em bè bạn theo kiểu “nếu không phải là bạn tôi thì còn ai dám nói sự thật về tôi với tôi” của một triết gia nào đó tôi quên tên thì hẳn nhiên là quá lý tưởng... Làm sao không nhớ những đêm thơ ở Đại học Sư phạm, Đại học Tổng hợp, ở Trụ sở Hội Văn nghệ, ở 22 Trương Định... Những giọng thơ hào sảng, đầy tính chất “quảng trường” kiểu Mayakovsky, những ca khúc phổ thơ thời phong trào của Trần Quang Long qua giọng hát của anh Lượng, thơ Võ Quê qua giọng hát của Lê Phùng... Một Lê Viết Tường tràn đầy nhiệt huyết với bài thơ “Khúc hát đường chân trời”, một Trần Thị Huyền Trang nữ tính và triết lý với “Logíc của rubic”, một Trần Bá Đại Dương đầy ắp cảm xúc của lý tính với “Ghi nhận ở cầu Trường Tiền”... Làm sao không nhớ những buổi giới thiệu tác phẩm mới, hội thảo về thơ, truyện ngắn như thầy Bửu Ý giới thiệu thơ J. Prèvert, giới thiệu truyện ngắn phương Tây hiện đại - số đặc biệt của tờ Le Monde số 6.1984, hội thảo về thơ “Trần Vàng Sao - người đàn ông 43 tuổi...”, hội thảo về nhạc vàng (Nguyễn Quang Lập đứng lên làm ca sĩ hát minh hoạ nhạc viết theo đơn đặt hàng về kế hoạch hóa gia đình), mời nhà văn Nguyễn Minh Châu nói chuyện về sáng tác... Những năm tháng ấy, câu lạc bộ văn học Thành đoàn được sự hỗ trợ rất lớn từ các anh chị ở Hội Văn nghệ mà “chủ trì” là anh Nguyễn Khoa Điềm, anh Tô Nhuận Vỹ, anh Hoàng Phủ Ngọc Tường... Trong các sinh hoạt văn học, những cây bút trẻ mạnh dạn thể hiện chính kiến của mình về mọi vấn đề. Có nhiều lần các diễn giả phải nổi cáu như lần anh em hỏi anh Hoàng Phủ Ngọc Tường một cách ráo riết rằng có phải anh chọn việc ngợi ca cỏ hoa, thiên nhiên xứ Huế để tránh vấn đề “chống tiêu cực” vốn là thế mạnh của thể ký? Anh Tường đỏ mặt tía tai “Tui bênh vực cái Đẹp, tôn vinh hoa cỏ cũng là một cách “chống tiêu cực” của riêng tui, vấn đề không thể cãi với các anh được”. Bầu không khí thật sự dân chủ những năm đầu đổi mới đã giúp chúng tôi học hỏi lẫn nhau, học hỏi thế hệ đi trước để tự nâng tác phẩm mình lên, để việc đứng trong hàng ngũ những kẻ viết không phải là việc “đứng cho đẹp đội hình” hoặc giả chuyện văn chương chỉ là chuyện chơi, bằng lòng với việc ngồi “tâng bốc lẫn nhau” một tấc đến trời... Tôi nghĩ không có tuổi trẻ nào mà không khát vọng làm mới văn chương nghệ thuật thế nhưng những năm tháng ấy chúng tôi như hợp thời cuộc, gặp “nhân duyên” - những người trẻ đầy ắp khát vọng gặp một thế hệ đàn anh tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng “lắng nghe và thấu hiểu”, sẵn sàng chịu trách nhiệm khi đăng tải và “phát tán” những tác phẩm của chúng tôi ra cộng đồng, cộng với môi trường xã hội lúc ấy, nô nức trước trào lưu “đổi mới”... Những năm ấy, nhiều khi khát vọng của chúng tôi khiến nhiều người ngộ nhận là cắt đứt truyền thống, phủ nhận những người đi trước, kỳ thực - cũng như một thế hệ trước đó, tạm gọi là thế hệ “phong trào”, chúng tôi mong muốn đổi thay. Văn chương nghệ thuật mà không có gì gọi là mới thì còn gì là văn chương nghệ thuật. Một người bạn, giờ đã trôi dạt về phương Nam, mù tăm tin tức là Thiệp Đáng - người có những câu thơ hết sức ấn tượng như “những con bò mang guốc đi về phía cỏ non...”, “lá mọc trên đầu tôi hồi nửa đêm nguyên tiêu - từ đó tôi hoá nên một thực thể xanh biếc” (Bài “Lá” SH số 2 (41) - tháng 2,3/1900)... Rất nhiều năm sau, thời hậu câu lạc bộ văn học Thành đoàn vẫn viết với một cách thức mới mẻ như thế bằng sự xác tín mạnh mẽ về việc viết của mình... Mấy năm sau ngày Lê Viết Tường mất ở Bến Me, tôi về Đăk Lăk, ghé Sở Văn hoá, nơi Tường công tác, anh em chỉ về phía một góc cơ quan, còn lại mấy cái xoong nhôm sứt mẻ của vợ chồng Tường, một đống báo cũ nghe nói của vợ chồng thi sĩ dùng để dán bao bì đem bỏ chợ cho các bà nội trợ gói hàng... Xốn xang trong tôi một khúc hát về đường chân trời của tin yêu và khát vọng... Tôi về Nha Trang sau gần 25 năm hỏi thăm Trần Thị Kim Oanh thì mới biết Oanh có thâm niên mười mấy năm trong viện tâm thần “giờ có nhận ra được ông đâu, đến tên mình cô ấy còn không nhớ”.

Làm sao không nhớ những sáng Tịnh Tâm, những chiều Thiên Mụ, những đêm Lữ quán, nhà 22... Một chuyện riêng - tôi được anh chị em Thành đoàn tín nhiệm (có lẽ do đói kém nhất bọn) được mời dạy lớp Sao Khuê - lớp sáng tác văn học thiếu nhi của Nhà Thiếu nhi Huế sau anh Võ Quê, cô Ẩn. Chẳng biết các em tôi dạy, văn chương giờ tới đâu nhưng tôi tin các em sẽ lớn lên bằng những khát vọng làm đẹp cuộc sống này. Câu lạc bộ Văn học Thành đoàn sau lứa chúng tôi còn hoạt động một thời gian nữa, và có lẽ chính môi trường Huế có một lớp viết trẻ, sau này đứng được trong lòng bạn đọc dù viết báo hay viết văn như Phạm Xuân Hùng (Từ Dạ Thảo), Trần Tuấn, Lê Đức Dục, Minh Tự, Hồ Đăng Thanh Ngọc, Ngô Thiên Thu, Lê Trung Việt, Phạm Nguyên Tường...

Lứa chúng tôi ngày ấy hẳn ai nấy đều sợ viết hồi ký bởi viết hồi ký là chấp nhận mình đã già. Mãi nhiều năm về sau và hiện tại chúng tôi vẫn thấy mình đương rất trẻ, ít nhất là trong những suy nghĩ về việc làm mới văn chương. Nhớ về những năm tháng ấy, tôi còn nhớ một đoạn thơ trong bài Mai có hòa bình của thi sĩ Ngô Kha được phổ nhạc, anh Lượng hát những lần gặp mặt anh em:

“...Tin em trao về hồng như nụ chín
Mai có hoà bình khác thể yêu đương
Đường dù ngại đi rừng chen lớp lớp
Nhớ nhau thì về cho kịp trời thu

Trời có tơ đan nắng hanh vườn cũ
Áo thô bạc màu hẹn buổi vinh quy
Chim vỗ cánh bay theo đàn tình tự
Xứ mẹ con về góp hội trùng tu”

Với tôi, nhiều khi khát vọng sáng tạo như cánh chim phượng hoàng huyền thoại vẫn đập cồn cào trong tàn tro để mong được tái sinh.

P.T.Đ
(267/5-11)






Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?