Nhà văn Võ Văn Trực, người được mệnh danh là “Nhà văn của làng quê”, những câu chuyện ông viết ra khiến người ta không khỏi khâm phục. Đôi khi, nói đến các nhà văn, người ta nghĩ tới những con người bay bổng, lãng mạn, thi vị hóa cuộc đời này, nhưng Võ Văn Trực lại là con người của cuộc đời chân thực, lầm lũi và vạm vỡ khác thường.
Nhà văn Võ Văn Trực
Chuyện làng vây hổ
Tôi biết nhà văn Võ Văn Trực lần đầu tiên qua những trang ông viết về làng tôi, làng Tam Lễ ở Quỳnh Lưu, Nghệ An. Làng tôi thời phong kiến rừng núi nhiều, hổ voi thường kéo về. Người dân không sợ hãi mà mỗi khi hổ về thì tổ chức bắt lấy con hổ đó. Trong cuốn địa chí về Nghệ An, nhà nghiên cứu Ninh Viết Giao có viết một đoạn về làng Tam Lễ và lễ hội vây hổ. Khi muốn viết về chính làng mình, tôi đã gặp nhà nghiên cứu Ninh Viết Giao, khi ấy ở khu tập thể Quang Trung, thành phố Vinh. Nhà nghiên cứu được xem như “thổ địa” cái gì cũng biết về xứ Nghệ ấy, thật bất ngờ, lại giới thiệu cho tôi: “Cháu hãy tìm bác Võ Văn Trực, bác ấy từng viết rất hay về lễ hội của làng cháu. Bác ấy đã sống nhiều ngày để tìm hiểu và viết về phong tục lạ của làng cháu”. Tôi rất bất ngờ, vì bác Võ Văn Trực từ lâu đã ra sinh sống ở Hà Nội, là nhà văn nổi tiếng, song đối với mảnh đất xứ Nghệ, dù xa xôi mà những phong tục tập quán gì bác cũng tỏ tường khiến chính người ở quê cũng phải kính nể như vậy.
Tôi ra Hà Nội, tìm đến báo Văn Nghệ. Bác Trực đậm người, tiếng nói rất hiền lành, khác hẳn khuôn mặt chữ điền nom góc cạnh của bác. Bác bảo tôi: “Các cháu lớn lên sau này ít biết chuyện đời trước. Bác đã tới gặp nhiều vị trưởng lão, các vị thợ săn, ngồi bên bếp lửa ghi chép tỷ mỷ cách thức dân làng bắt hổ thế nào. Phong tục quê cháu rất hay, hổ đến nhà thì không được sợ hổ, mà phải tìm cách bắt lấy nó!”.
Bác tặng tôi một cuốn sách của bác có nguyên bài viết về lễ hội vây hổ của làng tôi do bác viết. Tôi mừng không còn bút giấy nào tả xiết, vì hồi trước sách vở hiếm, lại chưa có internet như bây giờ. Cảm động nữa là bác lại bảo: “Bác cũng từng vào nhà cháu, được bà của cháu nấu nước chè xanh cho uống”. Lần gặp bác Võ Văn Trực để lại dấu ấn sâu đậm trong tôi, một người viết báo, viết văn mới ngoài 20 tuổi. Đó là hình ảnh một con người giản dị, thông hiểu những phong tục tập quán của các làng quê, tình yêu quê hương đất nước biến thành những trang viết, lưu giữ thuần phong mỹ tục.
Ði viết là đi sưu tầm, nghiên cứu
Những nhà văn ở làng tôi, như nhà văn Lê Lân, nhà thơ Trần Ngưỡng đều dành cho nhà văn Võ Văn Trực những lời tri ân, bởi chính ông, một nhà văn từ huyện khác tới đã ghi lại đầy đủ chi tiết hơn cả những phong tục tập quán của quê tôi. Cùng làm việc nhiều năm với nhà văn Võ Văn Trực tại Báo Văn Nghệ, nhà văn Trần Thị Thắng nói: “Nhà văn Võ Văn Trực sống ở đời hết sức hiền lành, nhưng văn chương ông viết ra lại rất sắc sảo”.
Tôi còn nhớ một lần ghé báo Văn Nghệ lấy truyện ngắn tòa soạn một tờ báo đặt bác viết. Bác đưa cho tôi một bản thảo đã đánh máy sẵn, thậm chí nó hơi úa vàng. Bác cứ viết, cứ để sẵn trong một cái phong bì, nơi nào xuất bản, bác sẽ đưa cho in. Có thể nói, trong cái tủ cũ kỹ của bác luôn sẵn sàng những truyện chưa in bao giờ, được đánh máy ngăn nắp. Bác trái ngược với mẫu nhà văn viết ra cái gì là muốn in ngay, không in được ngay thì ăn ngủ không yên. Nhà văn Võ Văn Trực đưa cho tôi tập bản thảo tới hàng ngàn trang cũ kỹ, bảo: “Tôi có hàng chục cuốn sách chưa in, cũng không quan trọng, vì còn nhiều việc phải làm hơn”.
Quả nhà văn Võ Văn Trực có nhiều việc để làm. Ông sinh năm 1936 tại Diễn Châu, Nghệ An. Ông viết về nông thôn, nhưng xuất thân từ ngành ngoại giao, một người đọc rộng biết nhiều, song lại chọn mảnh đất “canh tác văn chương” là những vùng đất lề quê thói, thuần Việt nhất, xa xôi, hẻo lánh, nơi mà những phong tục xưa còn đó, nơi mà con người vẫn thuần hậu từ những câu chuyện về cố Bợ,chuyện về núi Hai Vai đi vào lòng người. Ông gợi cho tôi nghĩ về nhà văn Lão Xá, một nhà văn Trung Quốc rất giỏi ngoại văn, nhưng chọn cho mình lối viết kể chuyện dung dị về những người dân bình thường, những chủ nhân văn hóa của một dân tộc, hay M. Gorki, một nhà văn viết về cuộc sống lao động của người dân Nga.
![]() |
Nhà văn Võ Văn Trực (trái) và nhà thơ Tế Hanh. Ảnh Tư liệu |
Ðời văn đời người
Đúng như nhà văn Trần Thị Thắng, người từng nhiều năm làm việc tại Báo Văn Nghệ cùng Võ Văn Trực nhận xét, nhà văn xứ Nghệ rất hiền lành trong đời thường để mà góc cạnh trong văn chương. Cuốn tiểu thuyết: “Vết sẹo và cái đầu hói” của nhà văn xứ Nghệ gây xôn xao một thời, khi nhiều người cho rằng nó đã phơi bày nhiều sự thật không ai dám viết về đời sống văn chương Việt Nam một thuở. Cũng là một người trong nghề, nhà văn Trần Thị Thắng nói với phóng viên “Vết sẹo và cái đầu hói” là tiểu thuyết đáng đọc của Võ Văn Trực.
Nhà thơ Trần Hoàng Thiên Kim từng nhận xét về Võ Văn Trực: “Ông cương trực như chính cái tên cha mẹ đặt cho mình, luôn thẳng thắn và quyết liệt đấu tranh với những thói rởm đời dù ông hoàn toàn nhận thức được rằng, sự đấu tranh đó không phải lúc nào cũng mang lại cho ông những điều may mắn”.
Nhiều tác giả nghĩ rằng tác phẩm lớn, tác giả lớn phải viết về những đề tài khổng lồ, những chủ đề hấp dẫn, hoặc nhà văn thì viết theo đơn đặt hàng, viết kịch bản phim dài tập mưu sinh. Tôi nhớ mãi một lần ghé thăm bác Võ Văn Trực, nhà văn khoe với tôi một tập bản thảo, ước khoảng 800 trang đánh máy, chỉ về mỗi một thể loại là vè dân gian mà nhà văn sưu tầm được ở Nghệ Tĩnh. Nhà văn nói: “Các nhà văn không dám viết, các nhà báo có thể chưa dám nói về những tiêu cực này nọ, nhưng dân họ đã có ngay vè thời sự về ông nọ, bà kia, chuyện nọ, chuyện kia hết rồi. Vè dân gian không có vùng cấm cháu ạ!”.
Lẽ thường, nhà văn quý từng chữ của mình đã đành, nhưng nhà văn Võ Văn Trực còn quý từng chữ, từng lời của người dân quê, từ mẩu chuyện nhỏ, một vài bài thơ, một câu chuyện kể, đều được nhà văn ghi lại hết cả, chờ gom đủ tập và tìm được nhà xuất bản để in. Bác từng bảo tôi, với sự phấn khích và sự ngỡ ngàng thế này: “Khi tìm hiểu về làng của mình, bác cũng đã gom đủ tư liệu để in hàng vạn trang sách, thành một tổng tập văn học dân gian của một ngôi làng. Vậy đất nước ta bao nhiêu làng? Sẽ có bấy nhiêu tổng tập văn học dân gian đấy cháu ạ!”.
Nhà văn Võ Văn Trực, một nhà văn có sự nghiệp sáng tác trải rộng trên các địa hạt thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian đã qua đời ngày 5/4/2019 tại Hà Nội sau thời gian lâm bệnh. Giải thưởng: Giải thưởng Hội văn nghệ Hà Nội với tập thơ Trăng phù sa năm 1983; Giải thưởng Hội Văn nghệ Hà Nội về thơ (1976 - 1980) và bút ký (1981 - 1985); Giải thưởng Bộ Giao thông Vận tải với tập bút ký Đèo lửa đèo trăng năm 1987. Các tác phẩm tiêu biểu: Người anh hùng đất Hoan Châu (1976); Trăng phù sa (1983); Tiếng ru đồng nội (1990); Ngày hội của rạng đông (1978); Hành khúc mùa xuân (1980); Trận địa quê hương (1972); Chú liên lạc đội Xích vệ (thơ thiếu nhi - 1971); Câu chuyện những dòng sông (1983); Chuyện làng ngày ấy (1993); Hương trong vườn bão (1995); Vè Nghệ Tĩnh (in chung - 1962); Kho tàng ca dao xứ Nghệ (in chung - 1996); Đèo lửa đèo trăng (1987); Những dấu chân lịch sử (1985); Truyền thuyết núi Hai Vai (1990); Nắng sáng trời ngoại ô (1979); Những thi sĩ dân gian (1996). |
Theo Trần Nguyễn Anh - TP
Giải thưởng văn học Sông Mekong lần thứ 11 sẽ diễn ra tại thủ đô Phnompenh, Campuchia vào cuối năm 2020. Hai tác giả Việt Nam đoạt Giải thưởng năm nay là tác giả Trần Nhuận Minh với tác phẩm sách thơ Qua sóng Trường Giang và tác giả Trần Ngọc Phú với tác phẩm Từ Biên giới Tây Nam đến đất Chùa Tháp.
Trong dịp kỷ niệm 100 năm Ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4-10-1920 - 4-10-2020), NXB Hội Nhà văn cho ra mắt bạn đọc tập sách dày dặn, công phu và nghĩa tình Tố Hữu - Một đường thơ, một đường đời.
Nhà thơ Vũ Quần Phương cho rằng, người cuối cùng của phong trào Thơ mới vừa từ giã bạn đọc ở tuổi 100 – thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - là người “không để thơ… ngủ quên trên thành công của dòng lãng mạn trước đó”.
Đoàn Ngọc Thu nói rằng chị thích thơ của mình ngày xưa hơn. Những xúc cảm ấy vẫn như còn váng vất trong những vần thơ trong tập “Sau bão” (NXB Hội Nhà văn, 2020).
Ra đời cách đây 25 năm, bộ truyện “Kính Vạn Hoa” của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có ý nghĩa đặc biệt, khơi luồng gió mới cho văn học thiếu nhi Việt Nam thời kỳ đổi mới, mang đến món ăn tinh thần lý thú bổ ích. Tuy nhiên, quá trình thực hiện bộ sách cũng thử thách những người chọn lựa bước trên con đường dài sáng tạo không ngừng nghỉ.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Ðà Lạt, nguyên quán Quảng Bình, lúc nhỏ theo học ở Trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội.
Sáng 22/11/2020, Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã thông báo chia sẻ tin buồn cho các nhà thơ và những người yêu thơ đó là nhà thơ tiền bối nổi tiếng Nguyễn Xuân Sanh vừa qua đời.
NXB Văn học giới thiệu “Nghề vương bụi phấn”, tác phẩm thứ ba của tác giả Nguyễn Huy Du, gồm những câu chuyện về tình thầy trò với văn phong mộc mạc, giản dị nhưng lôi cuốn, nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11.
Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.
“Nẻo vào văn xuôi đương đại Việt Nam” là tập tiểu luận - phê bình của TS Bùi Như Hải, do NXB Văn học ấn hành tháng 9-2020.
Sáng 5-11, Viện Văn học Việt Nam đã tổ chức toạ đàm nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh PGS – nhà nghiên cứu văn học Vũ Đức Phúc. Đây là một dịp để các thế hệ Viện Văn học ngồi lại cùng ôn cố và “soi chiếu cho tương lai” – như lời PGS,TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học nhận định.
Bằng sự lao động miệt mài và nghiêm túc, nhà văn Lê Văn Nghĩa thường gửi đến độc giả những đầu sách độc đáo, nhiều cuốn trong số đó có giá trị như một “bảo tàng ký ức” của không chỉ riêng tác giả.
Thạch Lam (1910 - 1942) là đại biểu xuất sắc của văn xuôi lãng mạn Việt Nam thời kì 1930 - 1945. Văn Thạch Lam đọng nhiều suy nghiệm, nó là cái kết tinh của một tâm hồn nhạy cảm và từng trải về sự đời (Nguyễn Tuân).
Sáng ngày 20/10/2020, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức kỉ niệm 100 năm ngày sinh nhà thơ Tố Hữu (4/10/1920 – 4/10/2020).
Đã có nhiều nhà văn viết về Hà Nội - Thủ đô yêu dấu - như Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyễn Khải… Nhưng tập truyện ký “Hà Nội và tôi” (NXB Hội Nhà văn) gần 300 trang với hơn 20 tác phẩm của nhà văn Vũ Ngọc Tiến, một người Hà Nội gốc, đã cho ta biết thêm một phần chân dung về những con người của đất Tràng An thanh lịch.
Tháng 10, nhân kỷ niệm 66 năm ngày Giải phóng Thủ đô, Nhã Nam giới thiệu tới bạn đọc một tác phẩm mới của nhà văn Nguyễn Trương Quý, cây viết vốn quen thuộc với những tản văn về các góc nhỏ của Hà Nội: “”Hà Nội bảo thế là thường”.
Rất lâu rồi, không có luận văn, luận án nào về thơ Tố Hữu. Cũng lâu lắm rồi, sau Hà Minh Đức, Trần Đình Sử… rất ít người viết về thơ ông. Tôi cũng chưa bao giờ viết về thơ Tố Hữu khi ông còn sống. Nhưng với chúng tôi, thơ Tố Hữu là nguồn suối tươi mát, mạch ngầm sống động trong đời sống tinh thần. "Chúng tôi" ở đây là thế hệ những người ở lứa tuổi 70. Trong quãng thời gian 70 năm của một đời người thì ít nhất có 30 năm (1954 - 1975) chúng tôi đã được sống với thơ Tố Hữu.
Bằng kiến thức của một chuyên gia đầu ngành và sự trân trọng quá khứ một đi không trở lại, ông đã chỉ ra giá trị của cuốn sách và ý nghĩa của việc làm sống lại những kí ức Hà Nội rất đặc biệt thông qua cuốn sách này...
Có một bộ phim tôi không thực nhớ nội dung, một bộ phim của Woody Allen mang tên "Đóa hồng tím ở Cairo", câu chuyện mang máng mà tôi còn nhớ, đó là một người phụ nữ thất bại trong tất cả mọi khía cạnh cuộc đời, rồi cô vào một rạp chiếu bóng, xem một bộ phim, và trong giây phút ấy, cô quên béng mất cuộc đời mình, cô òa khóc, không phải vì mình, mà vì những nhân vật trong phim.
Năm 1941, với việc xuất bản Dế mèn phiêu lưu ký ở tuổi 20 (bản in đầu tiên có nhan đề Con dế mèn), Tô Hoài có được hai vinh dự lớn trong nghề cầm bút: Trở thành người mở đầu thể loại truyện đồng thoại; Tác phẩm mở đầu lại là đỉnh cao của thể loại, đồng thời là một trong những áng văn học thiếu nhi nổi tiếng thế giới nhất của Việt Nam.