Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.
Tranh: Nguyễn Văn Hổ
Tôi đến thăm nhà văn Nguyễn Xuân Khánh khi ông vừa trải qua một cuộc phẫu thuật trở về. Ông gầy hơn nhưng vui vẻ và nhiệt huyết với văn chương vẫn sôi nổi. Những “đứa con” của Nguyễn Xuân Khánh mỗi khi chào đời thường gây xôn xao văn đàn, không phải vì chúng được Hội nghề nghiệp trân trọng trao giải thưởng, mà vì những lời thán phục cũng như bình luận râm ran của người trong giới. Trung Trung Đỉnh nhất định rằng: Nếu một nhà văn Việt xứng đáng với giải Nobel thì nên trao cho Nguyễn Xuân Khánh. Tác giả “Lính trận” lâu nay có bệnh về mắt nhưng vẫn không bỏ sót bất kể “đứa con” mới lọt lòng nào của Nguyễn Xuân Khánh, đặc biệt cuốn “Chuyện ngõ nghèo”. Nguyễn Xuân Khánh tâm sự về tác phẩm có thể là cuối cùng trong đời viết của mình: “Lúc bấy giờ cả nước có phong trào nuôi lợn, đó là một sáng kiến của nhân dân để cải thiện đời sống. Tôi thấy hiện tượng này hay nên dựa vào đó viết cuốn tiểu thuyết cho vui”. Ông kể về sự lận đận của “Chuyện ngõ nghèo”: “Tôi đưa tới hai mấy nhà xuất bản nhưng chẳng nơi nào dám in”. Sau cùng trước khi nghỉ chức giám đốc NXB Hội Nhà văn, Trung Trung Đỉnh đã mạnh bạo “đỡ đầu” cho “đứa con” của Nguyễn Xuân Khánh. Có điều gì khiến cho tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh làm người ta e ngại? Nhà văn lí giải: “Tôi viết dưới dạng rất hiện thực, có thể sát mặt đất, chạm đến nhiều thứ. Nhưng rồi người ta nghĩ mãi thấy ghép tội cho nó cũng chẳng phải mà khen nó quá cũng không nên”.
Không bắt chước ai
Ông tâm sự thanh thản: Sẽ “giã từ” ngòi bút từ đây. Trong cuốn sách mới của ông, người ta vẫn thấy một Nguyễn Xuân Khánh còn tràn trề sáng tạo với bút pháp hậu hiện đại. Nhưng nhà văn lại phủ nhận những cố gắng của mình trong việc làm mới hình thức: “Tôi vui vì tâm sự của mình được nói ra. Do những nhu cầu về nội dung mà “đẻ” ra bút pháp như thế. Tôi viết có tính chất khoáng đạt, không giáo điều, khuôn mẫu, phá cách rất nhiều”. Từ khi dấn thân vào văn chương ông đã quan niệm: Phải viết khác, không tô hồng, không ảo tưởng với bức tranh hiện thực. Dù thế nào, người đọc cũng cần được gương mặt trung thực của thời đại. Nguyễn Xuân Khánh bắt đầu cầm bút trở lại từ những năm 90 của thế kỷ XX, bằng sự ra mắt của cuốn tiểu thuyết “Miền hoang tưởng”, rồi sau đó là sự ra đời của hàng loạt những tiểu thuyết buộc người ta phải thừa nhận Nguyễn Xuân Khánh đích thực là một nhà văn “đi nhẹ, nói khẽ”, gây chấn động lớn: “Hồ Quí Li”, “Mẫu thượng ngàn”, “Đội gạo lên chùa”. Thông thường mỗi tác phẩm ngốn của ông khoảng 5 năm làm việc liên tục. “Từ “Miền hoang tưởng” sang “Chuyện ngõ nghèo” tác giả cho thấy mình không chịu cũ như tuổi tác: “Miền hoang tưởng” có tính chất hư ảo, “Chuyện ngõ nghèo” sâu sắc, dung dị hơn. Cái này (tức “Chuyện ngõ nghèo”-pv) là tổng hợp nhiều truyện ngắn, truyện vừa hợp lại. Cốt truyện giải tán rất nhiều, phương pháp hiện đại. Tôi không bắt chước ai về hình thức mà nhu cầu của tác phẩm là như thế”.
Chinh phục kẻ “sành sỏi”
Sau chuỗi năm tháng long đong, Nguyễn Xuân Khánh trở lại rực rỡ, khi các tác phẩm của ông không chỉ được bạn đọc rộn ràng đón nhận mà còn giành những giải thưởng văn chương danh giá: “Mẫu thượng ngàn” đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2006. “Đội gạo lên chùa”, dày gần 900 trang, nằm trong bộ ba tiểu thuyết kiến giải lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, cùng “Hồ Quí Li”, “Mẫu thượng ngàn”. Tác phẩm nói về ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo trong đời sống người dân Bắc bộ thế kỷ 20. Cũng như tiểu thuyết “Hồ Quí Li”, “Đội gạo lên chùa” tiếp tục giành giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2010-2011, ở thể loại tiểu thuyết. Đối với Nguyễn Xuân Khánh mỗi một giải thưởng đều là niềm vui, niềm an ủi với người cầm bút. Sự ủng hộ của độc giả với tác giả cũng là nguồn khích lệ nhưng điều ông khao khát là cuộc chinh phục “những người sành sỏi trong xã hội chứ không phải cái lửa, rơm của xã hội đâu”.
“Tôi biết đan rổ, rá, biết tát nước, biết gói bánh chưng”.
Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh
Nguyễn Xuân Khánh cũng đồng tình: Nhà văn là những kẻ cô đơn. Trên hành trình cầm bút có lúc họ được ủng hộ, có lúc họ bị bỏ rơi. Nhưng nhà văn không vì sự thích hay không của đám đông mà lung lay con đường mình lựa chọn: “Viết văn là một ảo tưởng và người ta sống bằng những ảo tưởng, tin vào những giá trị mà mình tôn vinh. Không thì sao viết được?”, Nguyễn Xuân Khánh bộc bạch.
Trong giới đồn: “Đứa con út” của Nguyễn Xuân Khánh là “đứa con” xuất sắc nhất của nhà văn. Còn bản thân người sinh ra “Chuyện ngõ nghèo” không nghĩ thế: “Tôi chỉ biết tôi đã hoàn thành công việc của mình. Còn mỗi tác phẩm có số phận riêng, đời sống riêng”. Theo ông, mỗi một cây bút cần phải có một số lượng tác phẩm nhất định để nhìn ra “chất” của từng tác gia, mặc dù mỗi tác phẩm không quan trọng độ ngắn, dài. Nguyễn Xuân Khánh quyết định dừng bút với gia sản khoảng chục cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn “Bởi vì không phát triển được nữa. Đến độ nào đó ai cũng cùn đi, chẳng ai giữ mãi được sự sáng tạo”. Ông nói: “Có những người cả đời không dựng được phong cách cho mình. Thông thường được 3, 4 cuốn phải ra được gương mặt tác gia, nếu không ra được thì chịu”.
Nhưng độc giả cũng không nên buồn khi Nguyễn Xuân Khánh không còn “nhả tơ”. Bởi chính ông cũng không biết chắc điều gì sẽ xảy ra trong tương lai: “Không thể qui định chấm hết cho một tác gia”. Biết đâu, một ngày đẹp trời, có cảm hứng sáng tạo người ta lại thấy Nguyễn Xuân Khánh ngồi vào bàn viết. Chẳng hạn, ông sẽ viết về Tết, vì chính ông thừa nhận, đây là mảng đề tài ông chưa có dịp chạm đến.
Anh chàng nửa quê, nửa phố
Mỗi khi nhớ đến Nguyễn Xuân Khánh tôi thường nhớ tới Nguyễn Trí của “Bãi vàng, đá quí, trầm hương”. Họ đều có một cuộc đời lên thác, xuống ghềnh theo cách khác nhau. Những năm bị “treo bút” về nghỉ mất sức, Nguyễn Xuân Khánh làm đủ nghề để sống. Ít ai nghĩ ông từng là một thợ may, từng là tay nuôi lợn… “Tôi sống thật sự bằng những nghề đó, chứ không phải cưỡi ngựa xem hoa”, nhà văn nhớ lại.
Tác giả “Đội gạo lên chùa” sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Quê ngoại ở làng Thanh Nhàn, nay chính là con phố Trần Khát Chân, nơi ông đang sống. Quê nội của ông ở làng Cổ Nhuế. Do cha mất sớm, Nguyễn Xuân Khánh theo mẹ về bên ngoại. Trong ký ức của ông, làng quê ngoại đẹp như một bức tranh yên ả: “Làng Thanh Nhàn ngày xửa, ngày xưa không theo nông nghiệp truyền thống, làng có ao thả cá, trồng sen, trồng rau muống, trồng ổi… Sự thực cái làng này là một làng của thành phố, phía bên kia đường đã là phố Lò Đúc, nội thành Hà Nội. Làng là nơi sinh sống của những thợ tiện, thợ nguội, một số viên chức nghèo, mấy ông tham, ông phán có những cái nhà vườn ở đây”. Nguyễn Xuân Khánh lớn lên trong gia đình viên chức: “Đàn ông đi làm thợ ở nhà máy đèn, phụ nữ thì buôn bán ở chợ Hôm. Nhà tôi chuyên bán măng vì có mối liên hệ giữa gia đình tôi và gia đình ở Thái Nguyên”.
Mỗi khi tết đến, Nguyễn Xuân Khánh lại về quê nội ở làng Cổ Nhuế. Tết ở Cổ Nhuế cũng như tết ở mọi làng quê khác, “có cây nêu, có mọi thứ”. Ông tự vẽ chân dung mình: “Cái làng Cổ Nhuế của tôi cũng là làng bán nông nghiệp, đàn ông cũng ra thành phố làm việc. Tôi là cái anh chàng nửa nông thôn, nửa thành thị”. “Chàng nửa nông thôn, nửa thành thị” ấy bật mí: “Tôi biết đan rổ, rá, biết tát nước, biết gói bánh chưng”. Đó là Nguyễn Xuân Khánh đã nói giảm. Những công việc trên ông đều có thể làm ở mức độ giỏi. Nhiều mùa tết đi qua, cả ngàn chiếc bánh chưng đã nở ra trên đôi tay của người cầm bút. Ông khoe: Nhiều người nhờ tôi gói bánh chưng hộ. Gia đình ông vẫn giữ truyền thống tết đến gói bánh chưng: “Trẻ con thích nhà đun bánh chưng. Nhà tôi từ nghèo khổ vẫn gói, bây giờ vẫn gói. Chúng tôi muốn giữ lại không khí của hội hè. Con người càng ngày càng thèm những ngày hội thực sự”. Con trai thứ hai của Nguyễn Xuân Khánh bây giờ thay cha gói bánh.
Nguồn: Nông Hồng Diệu - TP
Cái gì qua đi là qua đi
Tết ở gia đình nhà văn “Đội gạo lên chùa” vẫn giữ được hầu hết những nề nếp cổ truyền song ông thừa nhận, tết truyền thống đang nhạt dần. Đó cũng là điều tất yếu. “Cái gì qua đi là qua đi, Hà Nội cũ không bao giờ trở lại” nên ông không mang cảm giác của “Thăng Long thành hoài cổ”: “Khi tôi viết về lịch sử, văn hóa, tất cả những âu lo, mong muốn của tôi đều thể hiện trong đó”. Nguyễn Xuân Khánh viết “Mẫu thượng ngàn” cũng là sự cố tình giữ lại nét đẹp của văn hóa Việt. Về “Mẫu thượng ngàn”, nhà văn Nguyên Ngọc đã không tiếc lời khen: “Nếu đi tìm một nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết này thì hẳn có thể nói nhân vật chính đó là nền văn hóa Việt, cái thực tại vô cùng hiện thực, vừa rất hư ảo, bền chặt, xuyên suốt, mà cũng lại biến hóa khôn lường, rất riêng và rất chung, rất bản địa mà cũng rất nhân loại”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)