Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Viết văn là một ảo tưởng

10:15 12/01/2017

Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.

Tranh: Nguyễn Văn Hổ

Tôi đến thăm nhà văn Nguyễn Xuân Khánh khi ông vừa trải qua một cuộc phẫu thuật trở về. Ông gầy hơn nhưng vui vẻ và nhiệt huyết với văn chương vẫn sôi nổi. Những “đứa con” của Nguyễn Xuân Khánh mỗi khi chào đời thường gây xôn xao văn đàn, không phải vì chúng được Hội nghề nghiệp trân trọng trao giải thưởng, mà vì những lời thán phục cũng như bình luận râm ran của người trong giới. Trung Trung Đỉnh nhất định rằng: Nếu một nhà văn Việt xứng đáng với giải Nobel thì nên trao cho Nguyễn Xuân Khánh. Tác giả “Lính trận” lâu nay có bệnh về mắt nhưng vẫn không bỏ sót bất kể “đứa con” mới lọt lòng nào của Nguyễn Xuân Khánh, đặc biệt cuốn “Chuyện ngõ nghèo”. Nguyễn Xuân Khánh tâm sự về tác phẩm có thể là cuối cùng trong đời viết của mình: “Lúc bấy giờ cả nước có phong trào nuôi lợn, đó là một sáng kiến của nhân dân để cải thiện đời sống. Tôi thấy hiện tượng này hay nên dựa vào đó viết cuốn tiểu thuyết cho vui”. Ông kể về sự lận đận của “Chuyện ngõ nghèo”:  “Tôi đưa tới hai mấy nhà xuất bản nhưng chẳng nơi nào dám in”. Sau cùng trước khi nghỉ chức giám đốc NXB Hội Nhà văn, Trung Trung Đỉnh đã mạnh bạo “đỡ đầu” cho “đứa con” của Nguyễn Xuân Khánh. Có điều gì khiến cho tác phẩm của Nguyễn Xuân Khánh làm người ta e ngại? Nhà văn lí giải: “Tôi viết dưới dạng rất hiện thực, có thể sát mặt đất, chạm đến nhiều thứ. Nhưng rồi người ta nghĩ mãi thấy ghép tội cho nó cũng chẳng phải mà khen nó quá cũng không nên”.

Không bắt chước ai

Ông tâm sự thanh thản: Sẽ “giã từ” ngòi bút từ đây. Trong cuốn sách mới của ông, người ta vẫn thấy một Nguyễn Xuân Khánh còn tràn trề sáng tạo với bút pháp hậu hiện đại. Nhưng nhà văn lại phủ nhận những cố gắng của mình trong việc làm mới hình thức: “Tôi vui vì tâm sự của mình được nói ra. Do những nhu cầu về nội dung mà “đẻ” ra bút pháp như thế. Tôi viết có tính chất khoáng đạt, không giáo điều, khuôn mẫu, phá cách rất nhiều”. Từ khi dấn thân vào văn chương ông đã quan niệm: Phải viết khác, không tô hồng, không ảo tưởng với bức tranh hiện thực. Dù thế nào, người đọc cũng cần được gương mặt trung thực của thời đại. Nguyễn Xuân Khánh bắt đầu cầm bút trở lại từ những năm 90 của thế kỷ XX, bằng sự ra mắt của cuốn tiểu thuyết “Miền hoang tưởng”, rồi sau đó là sự ra đời của hàng loạt những tiểu thuyết buộc người ta phải thừa nhận Nguyễn Xuân Khánh đích thực là một nhà văn “đi nhẹ, nói khẽ”, gây chấn động lớn: “Hồ Quí Li”, “Mẫu thượng ngàn”, “Đội gạo lên chùa”. Thông thường mỗi tác phẩm ngốn của ông khoảng 5 năm làm việc liên tục. “Từ “Miền hoang tưởng” sang “Chuyện ngõ nghèo” tác giả cho thấy mình không chịu cũ như tuổi tác:  “Miền hoang tưởng” có tính chất hư ảo, “Chuyện ngõ nghèo”  sâu sắc, dung dị hơn. Cái này (tức “Chuyện ngõ nghèo”-pv) là tổng hợp nhiều truyện ngắn, truyện vừa hợp lại. Cốt truyện giải tán rất nhiều, phương pháp hiện đại. Tôi không bắt chước ai về hình thức mà nhu cầu của tác phẩm là như thế”.

Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Viết văn là một ảo tưởng ảnh 1

Chinh phục kẻ “sành sỏi”

Sau chuỗi năm tháng long đong, Nguyễn Xuân Khánh trở lại rực rỡ, khi các tác phẩm của ông không chỉ được bạn đọc rộn ràng đón nhận mà còn giành những giải thưởng văn chương danh giá:  “Mẫu thượng ngàn” đoạt giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2006. “Đội gạo lên chùa”, dày gần 900 trang, nằm trong bộ ba tiểu thuyết kiến giải lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, cùng “Hồ Quí Li”, “Mẫu thượng ngàn”. Tác phẩm nói về ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo trong đời sống người dân Bắc bộ thế kỷ 20. Cũng như tiểu thuyết “Hồ Quí Li”, “Đội gạo lên chùa” tiếp tục giành giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2010-2011, ở thể loại tiểu thuyết. Đối với Nguyễn Xuân Khánh mỗi một giải thưởng đều là niềm vui, niềm an ủi với người cầm bút. Sự ủng hộ của độc giả với tác giả cũng là nguồn khích lệ nhưng điều ông khao khát là cuộc chinh phục “những người sành sỏi trong xã hội chứ không phải cái lửa, rơm của xã hội đâu”.

“Tôi biết đan rổ, rá, biết tát nước, biết gói bánh chưng”. 

Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh

Nguyễn Xuân Khánh cũng đồng tình: Nhà văn là những kẻ cô đơn. Trên hành trình cầm bút có lúc họ được ủng hộ, có lúc họ bị bỏ rơi. Nhưng nhà văn không vì sự thích hay không của đám đông mà lung lay con đường mình lựa chọn: “Viết văn là một ảo tưởng và người ta sống bằng những ảo tưởng, tin vào những giá trị mà mình tôn vinh. Không thì sao viết được?”, Nguyễn Xuân Khánh bộc bạch.

Trong giới đồn: “Đứa con út” của Nguyễn Xuân Khánh là “đứa con” xuất sắc nhất của nhà văn. Còn bản thân người sinh ra “Chuyện ngõ nghèo” không nghĩ thế: “Tôi chỉ biết tôi đã hoàn thành công việc của mình. Còn mỗi tác phẩm có số phận riêng, đời sống riêng”. Theo ông, mỗi một cây bút  cần phải có một số lượng tác phẩm nhất định để nhìn ra “chất” của từng tác gia, mặc dù mỗi tác phẩm không quan trọng độ ngắn, dài.  Nguyễn Xuân Khánh quyết định  dừng bút với gia sản khoảng chục cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn “Bởi vì không phát triển được nữa. Đến độ nào đó ai cũng cùn đi, chẳng ai giữ mãi được sự sáng tạo”. Ông nói: “Có những người cả đời không dựng được phong cách cho mình. Thông thường được 3, 4 cuốn phải ra được gương mặt tác gia, nếu không ra được thì chịu”.

Nhưng độc giả cũng không nên buồn khi Nguyễn Xuân Khánh không còn “nhả tơ”. Bởi chính ông cũng không biết chắc điều gì sẽ xảy ra trong tương lai: “Không thể qui định chấm hết cho một tác gia”. Biết đâu, một ngày đẹp trời, có cảm hứng sáng tạo người ta lại thấy Nguyễn Xuân Khánh ngồi vào bàn viết. Chẳng hạn, ông sẽ viết về Tết, vì chính ông thừa nhận, đây là mảng đề tài ông chưa có dịp chạm đến.

Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh: Viết văn là một ảo tưởng ảnh 2

Anh chàng nửa quê, nửa phố

Mỗi khi nhớ đến Nguyễn Xuân Khánh tôi thường nhớ tới Nguyễn Trí của “Bãi vàng, đá quí, trầm hương”. Họ đều có một cuộc đời lên thác, xuống ghềnh theo cách khác nhau. Những năm bị “treo bút” về nghỉ mất sức, Nguyễn Xuân Khánh làm đủ nghề để sống. Ít ai nghĩ ông từng là một thợ may, từng là tay nuôi lợn… “Tôi sống thật sự bằng những nghề đó, chứ không phải cưỡi ngựa xem hoa”, nhà văn nhớ lại.

Tác giả “Đội gạo lên chùa” sinh ra và lớn lên ở Hà Nội. Quê ngoại ở làng Thanh Nhàn, nay chính là con phố Trần Khát Chân, nơi ông đang sống. Quê nội của ông ở làng Cổ Nhuế. Do cha mất sớm, Nguyễn Xuân Khánh theo mẹ về bên ngoại. Trong ký ức của ông, làng quê ngoại đẹp như một bức tranh yên ả: “Làng Thanh Nhàn ngày xửa, ngày xưa không theo nông nghiệp truyền thống, làng có ao thả cá, trồng sen, trồng rau muống, trồng ổi… Sự thực cái làng này là một làng của thành phố, phía bên kia đường đã là phố Lò Đúc, nội thành Hà Nội. Làng là nơi sinh sống của những thợ tiện, thợ nguội, một số viên chức nghèo, mấy ông tham, ông phán có những cái nhà vườn ở đây”. Nguyễn Xuân Khánh lớn lên trong gia đình viên chức: “Đàn ông đi làm thợ ở nhà máy đèn, phụ nữ thì buôn bán ở chợ Hôm. Nhà tôi chuyên bán măng vì có mối liên hệ giữa gia đình tôi và gia đình ở Thái Nguyên”.

Mỗi khi tết đến, Nguyễn Xuân Khánh lại về quê nội ở làng Cổ Nhuế. Tết ở Cổ Nhuế cũng như tết ở mọi làng quê khác, “có cây nêu, có mọi thứ”. Ông tự vẽ chân dung mình: “Cái làng Cổ Nhuế của tôi cũng là làng bán nông nghiệp, đàn ông cũng ra thành phố làm việc. Tôi là cái anh chàng nửa nông thôn, nửa thành thị”. “Chàng nửa nông thôn, nửa thành thị” ấy bật mí: “Tôi biết đan rổ, rá, biết tát nước, biết gói bánh chưng”. Đó là Nguyễn Xuân Khánh đã nói giảm. Những công việc trên ông đều có thể làm ở mức độ giỏi. Nhiều mùa tết đi qua, cả ngàn chiếc bánh chưng đã nở ra trên đôi tay của người cầm bút. Ông khoe: Nhiều người nhờ tôi gói bánh chưng hộ. Gia đình ông vẫn giữ truyền thống tết đến gói bánh chưng: “Trẻ con thích nhà đun bánh chưng. Nhà tôi từ nghèo khổ vẫn gói, bây giờ vẫn gói. Chúng tôi muốn giữ lại không khí của hội hè. Con người càng ngày càng thèm những ngày hội thực sự”. Con trai thứ hai của Nguyễn Xuân Khánh bây giờ thay cha gói bánh.

Nguồn: Nông Hồng Diệu - TP

Cái gì qua đi là qua đi

Tết ở gia đình nhà văn “Đội gạo lên chùa” vẫn giữ được hầu hết những nề nếp cổ truyền song ông thừa nhận, tết truyền thống đang nhạt dần. Đó cũng là điều tất yếu. “Cái gì qua đi là qua đi, Hà Nội cũ không bao giờ trở lại” nên ông không mang cảm giác của “Thăng Long thành hoài cổ”: “Khi tôi viết về lịch sử, văn hóa, tất cả những âu lo, mong muốn của tôi đều thể hiện trong đó”. Nguyễn Xuân Khánh viết “Mẫu thượng ngàn” cũng là sự cố tình giữ lại nét đẹp của văn hóa Việt. Về “Mẫu thượng ngàn”, nhà văn Nguyên Ngọc đã không tiếc lời khen: “Nếu đi tìm một nhân vật chính cho cuốn tiểu thuyết này thì hẳn có thể nói nhân vật chính đó là nền văn hóa Việt, cái thực tại vô cùng hiện thực, vừa rất hư ảo, bền chặt, xuyên suốt, mà cũng lại biến hóa khôn lường, rất riêng và rất chung, rất bản địa mà cũng rất nhân loại”.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.