Đến nay, nhà văn Ma Văn Kháng đã cho ra đời hơn 20 tiểu thuyết, gần 200 truyện ngắn, chủ yếu lấy cảm hứng từ sử thi và thế sự đời tư, đề cập phần nhiều đến cuộc sống và con người vùng Tây Bắc.
Nhà văn Ma Văn Kháng.
Ở vào tuổi "xưa nay hiếm" - tuổi 80, ông vẫn miệt mài sáng tạo như người nông dân cần mẫn trên cánh đồng văn chương để cuối năm 2019 giới thiệu đến bạn đọc tập truyện ngắn "Người khách kỳ dị".
Dòng chảy bất tận
Tập truyện "Người khách kỳ dị" gồm 16 truyện ngắn do NXB Phụ nữ ấn hành. Tập truyện dày 260 trang này tiếp tục là dòng chảy cho cảm hứng bất tận của Ma Văn Kháng về những đề tài vốn đã trở thành thế mạnh trong bút lực của ông.
Có thể thấy, để sáng tạo nên những tác phẩm mang hơi thở của cuộc sống hiện đại nhưng vẫn chứa đựng những nét huyền bí về phong tục, quan niệm tâm linh, sự linh thiêng của con người nơi miền núi Tây Bắc heo hút trước hết là nhờ những năm tháng Ma Văn Kháng gắn bó với tỉnh miền núi Lào Cai.
Ma Văn Kháng đã từng là một thanh niên tràn đầy tình yêu lý tưởng, xung phong lên miền núi công tác. Gần 20 năm sống ở Lào Cai, ông có điều kiện tiếp xúc, gần gũi, thấu hiểu cuộc sống và con người ở mảnh đất này. Quãng thời gian đó đã giúp ông tích lũy một vốn sống dày dặn, làm tiền đề cho sáng tác của mình, góp phần làm nên những truyện ngắn chân thực, sinh động của một ngòi bút giàu trải nghiệm và có tầm nhìn sâu rộng trước hiện thực.
"Người khách kỳ dị" không thuần túy kể chuyện miền núi. Không gian trong tập truyện được trải rộng từ Hà Nội đến Lào Cai, thậm chí cả vùng biển miền Trung. Đó là những truyện ngắn vừa có sự giản dị, gần gũi, rất đời lại vừa hàm chứa những bài học nhân sinh sâu sắc. Người đọc như được chứng kiến những con người thực, việc thực, sống động đang hiển hiện trước mắt hoặc đã từng gặp ở đâu đó nhưng cũng không kém phần li kỳ.
Chính những yếu tố kỳ dị, có phần hoang đường được nhà văn khéo léo lồng ghép vào một số truyện ngắn đã tạo nên sự hấp dẫn, khiến ta đã đọc là bị lôi cuốn đến tận dòng chữ cuối cùng (người có gương mặt giống vợ anh, Cám ơn anh nhé, Rơi xuống biển cả, Nhà mới tậu).
Sự kỳ dị thể hiện ở những chi tiết nửa thực nửa hư, nửa nghĩ là người, nửa nghĩ là một thế lực siêu nhiên nào đó.
Thế giới tâm linh huyền bí được nhà văn đề cập, gợi một cái gì thiêng liêng như mạch ngầm từ quá khứ nối với hiện tại (Cát bụi, Một đám cổ khâu) giúp những thành viên trong gia đình xích lại gần nhau.
Đằng sau những yếu tố kỳ bí, nhuốm màu hư ảo trong truyện "Mùa săn ở Na Lê" là cuộc chiến cam go của con người với sức mạnh tàn bạo hủy diệt của thiên nhiên; là cuộc đấu lực, đấu trí giữa tinh người và tinh hổ, giữa cái thiện và cái ác.
Tập truyện đã chứng tỏ khả năng quan sát tinh tế và bao quát đời sống cũng như trăn trở, suy tư của nhà văn trước những vấn đề nhân sinh nóng hổi. Đó chính là sự tha hóa của con người trong xã hội hiện đại nơi thành thị. Những mối quan hệ thiêng liêng như tình thầy trò, lứa đôi, gia đình… bị chà đạp, đảo lộn như một hồi chuông cảnh tỉnh khi vật chất chi phối cách nhìn, cách sống của con người (Đất dữ, Giời có mắt, Quán ăn nổi).
Ma Văn Kháng còn vạch trần thói xu thời: Tham lam, ích kỷ, mê tín dị đoan. Chuyện giải hạn, xem ngày tốt để động thổ, tìm mộ… với sự xuất hiện của những nhân vật thầy bói, thầy cúng, nhà ngoại cảm chỉ làm tăng thêm sự phê phán, khiến người ta phải suy ngẫm về những giá trị thực của cuộc đời, của hiện tại.
Lấp lánh ánh sáng nhân văn
"Người khách kỳ dị" một lần nữa chứng tỏ sở trường của Ma Văn Kháng là mảng đề tài thế sự bởi trong tập truyện này ông đã dựng lên một bức tranh sinh động về hiện thực cuộc sống với những gam màu phong phú, nhiều cung bậc.
Thế giới nhân vật khá đa dạng, vận động theo sự chuyển biến của xã hội hiện đại. Ở đó có nhiều loại người: Từ anh lái xe Quý thèm thịt chó đến phát cuồng, liều lĩnh lao xe đuổi theo một cái bóng trắng nhỏ bé (Xe chạy đêm) đến vợ chồng anh lính Đường trong xóm trọ nghèo bị thói tham lam, thực dụng khiến cho những trận bạo hành thường xuyên diễn ra (Đất dữ).
Một số truyện đã xây dựng thành công những nhân vật rõ nét về cá tính, được đặt trong những tình huống điển hình của đời sống khiến người đọc như bắt gặp phần nào con người của chính mình ở trong đó.
Nhà văn đưa ra lời cảnh tỉnh con người cần phải luôn cảnh giác, tránh xa cái xấu cái ác đồng thời lên án những việc làm sai trái, vô đạo đức, mù quáng.
Bên cạnh những thói hư tật xấu, những xót xa, tủi nhục, nhẫn nhịn là vẻ đẹp của tình người ngời sáng mà ta bắt gặp qua các nhân vật: Thuyết (Nửa đêm), thầy giáo Phùng (Thầy Phùng kỳ quặc khác người), ông Ngọ (Con chuồn ớt và ông già cổ giả), ông Biền (Cám ơn đàn chim rừng).
Những truyện ngắn ấy lấp lánh ánh sáng nhân văn, khơi gợi bản tính thiện trong mỗi con người đem lại cho chúng ta niềm tin, niềm hi vọng vào những điều tốt đẹp luôn song hành trên đường đời.
Là nhà văn ưa triết lý, Ma Văn Kháng thường xen vào trong truyện của mình những triết lý thâm thúy, những chiêm nghiệm về đời, về người khiến ta phải suy ngẫm: "Đời người như căn nhà lớn có nhiều căn buồng nhỏ, buồn vui, cay đắng ngọt bùi đều đủ chỗ chứa" (tr 202). "Thiên toán bất do nhân toán, người tính không bằng giời tính" (tr 188)… Những triết lý ấy vẫn còn nguyên giá trị bởi nó được viết bằng trải nghiệm của cả cuộc đời nhà văn.
Tập truyện được viết bằng một thứ ngôn ngữ biến hóa và giọng điệu linh hoạt: Khi nhẹ nhàng, rủ rỉ gần gũi, đậm chất đời; khi ly kỳ lôi cuốn bởi những chi tiết độc đáo, chỉ có trong tưởng tượng của nhà văn.
Nhiều truyện tạo được cao trào khiến ta hồi hộp rồi vỡ òa với những cách "cởi nút" tất tự nhiên, lôgic (Người khách kỳ dị, Mùa săn ở Na Lê, Giời có mắt…).
Với Ma Văn Kháng, viết chính là cuộc sống. Viết để gửi gắm những trăn trở về "cõi nhân gian". Vì vậy, đọc tập truyện, ta càng hiểu hơn về hành trình lao động nghệ thuật miệt mài của nhà văn, càng trân trọng tài năng cũng như tâm huyết của ông dành cho văn chương nghệ thuật, cho cuộc đời.
Theo Nam Hồng - GD&TĐ
. Hai năm sau kể từ khi Julia Kristeva đưa ra khái niệm liên văn bản (intertextuality), Roland Barthes đã đi xa hơn nhiều qua một tuyên bố gây sốc: Cái chết của tác giả (The Death of the Author, 1968). Những quan niệm mới mẻ của các nhà khoa học một thời từng là trụ cột của chủ nghĩa cấu trúc đã chính thức khép lại vai trò của isme này và mở ra giai đoạn hậu cấu trúc. Trong quan niệm mang tính gây hấn của họ, người đọc, từ chỗ là kẻ bên lề, đã chính thức bước vào vị thế trung tâm với tư cách là kẻ có quyền năng tối thượng trong việc thiết lập mối quan hệ và ý nghĩa giữa văn bản và liên văn bản, giữa văn bản và các thiết chế văn hóa đã tạo ra nó(1).
Tiểu thuyết về giải phóng miền Nam Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.1975 của nhà báo kỳ cựu Trần Mai Hạnh đã vượt qua tiểu thuyết về chiến tranh biên giới phía Bắc Mình và họ của Nguyễn Bình Phương, tác giả xuất sắc của văn học đương đại.
“Tay chơi” Nguyễn Quang Sáng rời xa cõi tạm, “trưởng lão” Tô Hoài về với “Cát bụi chân ai,” nhà văn của đất và người phương Nam - Anh Đức về với đất Mẹ, tác giả của “Biển và chim bói cá” - nhà văn Bùi Ngọc Tấn kết thúc hành trình sống và viết…
"Những đỉnh núi du ca" là công trình nghiên cứu mới nhất về tộc người H'mông của nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Mạnh Tiến (ảnh bên), người đã cố công lang thang suốt ba năm trên khắp miền núi phía Bắc mà trọng tâm là cao nguyên đá Đồng Văn để tìm kiếm cho mình một lối tiếp cận khả dĩ nhất để giải mã những phản ứng phức tạp của tộc người vừa đặc biệt, vừa hấp dẫn nhưng cũng không ít bí ẩn.
"Có một phố vừa đi qua phố" - tập di cảo của cố tác giả Đinh Vũ Hoàng Nguyên - là một trong bốn tác phẩm văn học đoạt giải "Văn học Nghệ thuật Thủ đô 2014".
Nhà văn quân đội có tiếng Đình Kính (Hải Phòng) viết ở nhiều lĩnh vực: Tiểu thuyết, truyện ngắn, ký, kịch bản phim. Mảng chủ đề lớn mà ông đeo đuổi là biển và những người lính biển, với các tác phẩm “Sóng cửa sông” (1976), “Đảo mùa gió” (1978), “Lính thủy” (1978), “Người của biển” (1985) - Giải thưởng văn học Bộ Quốc phòng, “Sóng chìm” (2002), “Huyền thoại tàu không số” (2012) - 2 tác phẩm này đều đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn VN. Phóng viên Báo Lao Động đã phỏng vấn ông…
Trong tiểu thuyết Xác phàm, nhà văn Nguyễn Đình Tú dùng hình ảnh “mùi buồn” để gợi lại ẩn ức về một cuộc chiến tranh.
Bất kỳ người cầm bút nào cũng đều mơ ước rằng tác phẩm của mình sẽ trở thành sách gối đầu giường của hàng triệu người. Sao chúng tôi - những nhà văn, nhà thơ Việt Nam lại không mong muốn một ngày tác phẩm của mình hiện diện trên các ngôn ngữ của dân tộc khác chứ?
NGUYỄN NHẬT ÁNH
Tạp văn
Nhà văn Tô Hoài - tác giả của cuốn sách "Dế mèn phiêu lưu ký" khiến bao thế hệ bạn đọc Việt Nam say mê - đã từ trần vào trưa 6.7.2014 tại nhà riêng ở Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi.
Nobel Văn học là đỉnh cao nhưng không phải đỉnh cao nào cũng làm hoan hỉ tất cả mọi người. Việc lựa chọn của viện Hàn lâm Thuỵ Điển những năm gần đây chắc chắn sẽ làm chạnh lòng những ai đã trót yêu thích thế giới văn chương của Kafka, Jorge Louis Borges, Umberto Eco, Robbe – Grillet, Italo Calvino…
Ngày nay, nhìn lại chủ trương cách mạng của Phan Châu Trinh cách đây hơn một thế kỷ, một lần nữa chúng ta lại thấy tầm nhìn của một người mang khát vọng Khai dân trí, Chấn dân khí, Hậu dân sinh.
Lần nào ra Hà Nội, dù dài ngày hay chỉ là thoáng chốc, nhà văn Trần Thùy Mai cũng tới ngồi uống cà phê ở nhà hàng Thủy Tạ nhìn ngắm hồ Gươm và hẹn bạn bè tới gặp gỡ chuyện trò. Hỏi vì sao chị chỉ chọn mỗi chỗ này, Trần Thùy Mai bảo: “Là vì ở đây là “Hà Nội nhất”, lại có thiên nhiên bao quanh, giống như bờ sông Hương ở Huế vậy…”.