Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh sinh ngày 16 tháng 11 năm 1920, quê gốc thuộc huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Ông cũng là một trong những hội viên tiền phong tham gia xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam. Năm nay ông tròn 100 tuổi. Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức chúc thọ nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tại trụ sở số 9, Nguyễn Đình Chiểu hôm 9/11/2020 với sự tham gia của lãnh đạo Hội, các nhà văn nhà thơ và đại diện gia đình của ông.
Nhà thơ Hữu Thỉnh phát biểu tại buổi chúc mừng nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh tròn 100 tuổi.
Nguyễn Xuân Sanh sinh ra tại Đà Lạt. Cha ông vốn là một nhà nho quê Quảng Bình di cư vào đây. Ông học trung học và đại học ở Hà Nội và làm thơ từ khá sớm. Năm 16 tuổi, Nguyễn Xuân Sanh đã có truyện thơ “Lạc loài” đăng nhiều kì trên báo. Ông xuất hiện trong phong trào Thơ Mới và sớm bộc lộ giọng điệu thơ khác biệt so với những nhà thơ cùng thời. Ông cũng là một trong những người khởi xướng và thành lập nhóm Xuân Thu nhã tập.
Năm 1939, Nguyễn Xuân Sanh cùng với một số văn nghệ sĩ khác như nhà thơ Phạm Văn Hạnh, nhà thơ Đoàn Phú Tứ, nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc, họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát lập nhóm Xuân Thu với nỗ lực tìm tìm kiếm một con đường để thoát khỏi những bế tắc, dằn vặt của các văn nghệ sĩ đương thời. Năm 1942 nhóm xuất bản một tập sách mang tên Xuân Thu nhã tập, gồm một số bài thơ, văn xuôi triết lí và tuyên ngôn nghệ thuật. Sau đó, tên tập sách dần được dùng làm tên gọi của nhóm.
Nhóm Xuân Thu nhã tập chủ trương đổi mới, ghét sự nhàm chán, sự bắt chước đã thành công thức, sự ủy mị nhạt nhẽo của một bộ phận thơ ca lãng mạn, nhất là "cái tôi", mảnh đất linh diệu của Thơ Mới đã được đào sâu đến tận cùng, và đến lúc này đã mất đi sức sống. Nhóm khao khát tìm đến cái mới, phủ nhận và vượt lên cái cũ, cái lỗi thời... Ngay trang đầu tập sách Xuân Thu nhã tập có dòng đề tựa: "Dưới bóng Xuân Thu sẽ thực hiện: Trí thức - Sáng tạo - Đạo đức”. Tạm hiểu là: Sự hiểu biết mở đường cho sáng tạo, và sáng tạo chân chính bao giờ cũng để đạt đến chân lí cao siêu - đó là Đạo. Đây chính là phương châm hoạt động của nhóm.
Trước Cách mạng tháng Tám 1945, Nguyễn Xuân Sanh tham gia phong trào sinh viên yêu nước. Sau đó, trong kháng chiến chống thực dân Pháp, ông tham gia Đoàn văn nghệ liên khu IV, phụ trách tạp chí Sáng tạo. Từ năm 1950, Nguyễn Xuân Sanh lên Việt Bắc tham gia Ban chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam và Tiểu ban Văn nghệ của Trung ương.
Từ khi thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957), ông lần lượt được cử làm Ủy viên Ban chấp hành hội các khóa I, II và III. Năm 1966 nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh được phân công giữ cương vị Hiệu trưởng Trường Bồi dưỡng viết văn và làm Chủ tịch Hội đồng Văn học dịch của Hội Nhà văn Việt Nam.
Tại buổi chúc mừng, nhà thơ Hữu Thỉnh đã khẳng định tài năng thơ ca và những đóng góp của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh cho nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung và Hội Nhà văn Việt Nam nói riêng. Có thể khẳng định, nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh đã có những đóng góp lớn trong việc cách tân thơ, trong công tác đào tạo các nhà văn trẻ và trong dịch thuật, nhằm giới thiệu nhiều tác gia văn học lớn của thế giới với bạn đọc Việt Nam. Nhà thơ Hữu Thỉnh nhấn mạnh: Ở nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh, người ta thấy được sự kết hợp của lí tưởng xã hội với lí tưởng nghệ thuật, sự tìm tòi sáng tạo trong nghệ thuật cũng là để phản ánh hiện thực cuộc sống tốt đẹp hơn...
Bên cạnh đó, các ý kiến của của GS. Phong Lê, nhà thơ Vũ Quần Phương, nhà thơ Mã Giang Lân, dịch giả Thúy Toàn, nhà phê bình văn học Cao Ngọc Thắng… đều khẳng định sự tìm tòi sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh và các thành viên trong nhóm Xuân Thu nhã tập. Sau này, khi tham gia cách mạng và theo kháng chiến, thơ ca của ông đã có những thay đổi lớn, nhập cuộc hơn cũng như gần với hiện thực cuộc sống hơn...
Nguyễn Xuân Sanh cũng là một trong số các nhà văn, nhà thơ tiên phong sáng lập và xây dựng Hội Nhà văn Việt Nam còn sống đến hôm nay. Hiện tại, dù sức khỏe đã giảm sút, ông không còn tham gia sáng tác, song những đóng góp của Nguyễn Xuân Sanh cho sự phát triển của nền văn học Việt Nam hiện đại, cho sự trưởng thành của Hội Nhà văn Việt Nam và xã hội vẫn luôn được ghi nhận.
Theo Bảo An - VNQĐ
(Đọc Áp tai vào đất, Lê Quang Trạng, Nxb Hội Nhà văn, 2017)
Nhà văn Nguyễn Thành Nhân (ảnh) được biết đến với tiểu thuyết Mùa xa nhà viết về những tháng năm anh làm nghĩa vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia. Đây là tác phẩm đầu tay tạo được tiếng vang giúp anh tiến sâu hơn với nghề viết.
Chiều ngày 12/4, tại Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam diễn ra tọa đàm giới thiệu hai cuốn tiểu thuyết “Phố Academy” ( tác giả Mary Costello, Hà Nguyễn dịch) và “Tuần lễ náu mình” (tác giả Maeve Binchy, Nguyễn Nhật Tuấn dịch) do Nhà xuất bản Phụ nữ cùng sự tài trợ của Đại sứ quán Ireland.
Tập sách 'Mỗi người một chỗ ngồi' mang phong vị văn chương "lạnh, sắc và tinh tế" của cây bút truyện ngắn tiêu biểu một thời.
Theo nhà nghiên cứu Trần Nhật Vy, đó là thời kỳ đầu của văn chương Sài Gòn gắn liền với thuở bình minh của báo chí chữ Quốc ngữ. Trần Nhật Vy đã tìm thấy nhiều tác phẩm có giá trị văn học sử trong quá trình nghiên cứu báo chí chữ Quốc ngữ cuối thế kỷ 19.
Nhà văn Vũ Hùng là tác giả của 40 đầu sách, trong đó có 2 tác phẩm được giải thường niên của Hội Nhà văn Việt Nam: truyện đồng thoại Sao Sao (1982) truyện ký Sống giữa bầy voi (1986).
Sau một gian nghiên cứu tìm tòi thể nghiệm, nhà văn Nguyên Hương vừa “trình làng” bộ ba “Tớ muốn đi cùng trời cuối đất” dành cho lứa tuổi học trò với cách viết mới mẻ, sử dụng yếu tố kì ảo khiến tác phẩm thêm phần cuốn hút.
“Bãi vàng và những chuyện tình nho nhỏ” bao gồm 15 truyện ngắn của nhà văn Ma Văn Kháng viết về tình yêu và thân phận người phụ nữ trong những cuộc tình trái ngang. Dưới ngòi bút của ông, tình yêu được miêu tả là “thuộc tính của những kẻ mang danh tính là con người,” (trích truyện ngắn “Bãi vàng”).
Truyện Linda Lê phản ánh thời biến động khó quên của một xứ sở, song hành hồi ức của một người đàn bà tâm thần, sống cô độc ở Paris.
Sáng nay (27/2), chuỗi sự kiện Ngày Thơ Việt Nam lần thứ XVI chính thức khởi động với hội thảo về thơ với chủ đề “Những vấn đề của thơ Việt Nam hiện nay” tại Hà Nội.
Ba cuốn sách của cố nhà văn Tô Hoài (“Giữ gìn 36 phố phường,” “Những ký ức không chịu ngủ yên” và “Người con gái xóm Cung”) chính thức ra mắt độc giả vào trong dịp đầu năm 2018.
“Giải thưởng sự nghiệp văn học” - một giải thưởng mới của Hội Nhà văn Việt Nam đã được trao cho nhà văn Vũ Hùng – cây viết đã bền bỉ dành cả cuộc đời mình để viết về trẻ em, muông thú, thiên nhiên.
Liên tiếp hai năm qua, Ma Văn Kháng trình làng 2 cuốn tiểu thuyết mới và mới đây một NXB cùng lúc phát hành 8 cuốn cả tiểu thuyết và truyện ngắn của cây bút có sức viết bền bỉ hàng hiếm ở Việt Nam. Nhưng Ma Văn Kháng liệu có còn phù hợp với đọc giả trẻ hôm nay, theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên vẫn là “câu hỏi khó”. Còn nhà văn Nguyễn Khánh Tình nói “đọc Ma Văn Kháng, tâm hồn tôi dịu đi”.
Đầu năm 2018, nhiều tựa sách văn học nước ngoài thú vị được các nhà xuất bản trong nước giới thiệu tới độc giả Việt Nam.
Sáng 25/1, Hội Nhà văn Việt Nam đã chính thức công bố danh sách Giải thưởng Văn học Hội Nhà văn Việt Nam năm 2017.
Với 66 bài viết được chia làm 3 phần, cuốn sách “Như mây thong dong” của tác giả Lưu Đình Long do NXB Văn hóa - Văn nghệ và công ty Saigonbooks ấn hành là một trong những thông điệp đẹp và tình yêu và người trẻ hiện nay.
Tối 5/1, tọa đàm “Văn chương nói với ta điều gì về kẻ khác” được Bảo tàng thấu cảm và Khóa học mùa thu và phát triển (ASOD) đồng tổ chức nhằm hướng tới cái nhìn đa chiều và khoa học xung quanh vấn đề thấu cảm nói chung và vấn đề thấu cảm trong văn chương nói riêng.
Không hẹn mà gặp, gần như cùng một lúc NXB Kim Đồng cho ra mắt hai tập chân dung văn học “Đi tìm giấc mơ” của tác giả Trần Hoàng Thiên Kim và “Như cánh chim trong mắt của chân trời” của Văn Thành Lê.
Được viết từ trước năm 1975, bộ 3 tác phẩm truyện dài gồm “Áo tím qua đường”, “Mối tình như sương khói” và “Còn những bóng mưa tan” của nhà văn Từ Kế Tường về tình yêu tuổi mới lớn từng được đông đảo các thế hệ độc giả đón nhận.
Cảm nhận đầu tiên khi đọc “Văn nghệ Hà Nội những năm 1947 – 1954”, hồi ức - biên khảo của Lê Văn Ba (NXB Hội Nhà văn, 2017) là cuốn sách ngồn ngộn tư liệu và hấp dẫn. Lê Văn Ba có đủ điều kiện, hoàn cảnh và tư cách để làm việc này. Ông sống, sáng tác và hoạt động bí mật trong Hà Nội tạm chiếm, từng bị địch bắt và giam ở Nhà tù Hỏa Lò (hòa bình lập lại năm 1954 ông tròn 20 tuổi).